NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Chế định người đại diện theo pháp luật là một yếu tố quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, không chỉ tạo điều kiện cho sự vận hành của doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia Theo từ điển English Legal Dictionary, đại diện (agency) là mối quan hệ giữa một người (đại diện) và một người khác, công ty hoặc chính phủ (người được đại diện) Đại diện hình thành khi người được đại diện ủy quyền cho ai đó thực hiện giao dịch hoặc ký kết hợp đồng Định nghĩa về người đại diện theo pháp luật (Legal Representative) chỉ rõ rằng đây là đại diện được quy định bởi pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về vai trò và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp.
Hệ thống pháp luật công ty toàn cầu đều công nhận sự cần thiết của người đại diện theo pháp luật (NĐD) và có những quy định cụ thể liên quan đến chủ thể này Các quốc gia theo hệ thống Common Law cũng đã phát triển khái niệm NĐD một cách đầy đủ Tuy nhiên, định nghĩa về NĐD theo pháp luật doanh nghiệp lại khác nhau giữa các quốc gia Luật Công ty năm 2006 của Vương Quốc Anh định nghĩa NĐD là cá nhân được ủy quyền thực hiện quyền hạn thay mặt công ty Tại Nhật Bản, Luật Công ty 2005 khẳng định quyền của người quản lý trong việc thực hiện các hành vi pháp lý và phi pháp lý nhân danh công ty Trong khi đó, pháp luật Úc cũng có cách tiếp cận riêng về NĐD theo pháp luật công ty.
1 “Khái niệm Agency - Legal Dictionary”, https://dictionary.law.com/Default.aspx?typed=agency&type=1, truy cập ngày 20/02/2020
2 “Khái niệm “Legal Representative - Legal Dictionary”, https://dictionary.law.com/Default aspx?searched
=legal%20representative&type=1, truy cập ngày 20/02/2020
3 Điều 323.2 Luật Công ty Vương Quốc Anh 2006, http://www.legislation.gov.uk/ukpga/2006/46/section/323, truy cập ngày 20/02/2020
4 Điều 11.1 Luật Công ty Nhật Bản 2005, http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/&re, truy cập ngày 20/02/2020
Theo pháp luật công ty, chức danh "director" đại diện cho công ty thực hiện quyền hạn, trừ những quyền hạn phải thực hiện trong cuộc họp chung Director đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh và mối quan hệ với cơ quan hành chính Trong bối cảnh pháp lý Úc, "director" không chỉ là Giám đốc/Tổng giám đốc mà còn có thể bao gồm các chức danh như Chủ tịch, Phó Chủ tịch, và Thư ký Hội đồng Quản trị Tương tự, Luật Công ty Singapore 2006 quy định rằng việc kinh doanh của công ty được quản lý dưới sự chỉ đạo của director, người có thể thực hiện tất cả quyền hạn trừ những quyền hạn yêu cầu thực hiện trong cuộc họp chung Mặc dù mỗi quốc gia có nhận thức pháp luật khác nhau, nhưng vẫn tồn tại điểm chung về khái niệm "NĐD", đó là người được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn nhân danh doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là chủ thể pháp luật có năng lực tham gia vào các quan hệ pháp luật, trong đó quan hệ kinh doanh thông qua người đại diện (NĐD) được xem là chủ yếu Tại Việt Nam, Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Doanh nghiệp 2014 đã định nghĩa rõ ràng về NĐD dựa trên vai trò và chức năng của họ Cụ thể, NĐD là cá nhân hoặc pháp nhân đại diện cho lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác trong việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự Theo Luật Doanh nghiệp 2014, NĐD của doanh nghiệp thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, đại diện cho doanh nghiệp trong các vụ án tại Trọng tài, Tòa án và các quyền khác theo quy định pháp luật NĐD còn được gọi là đại diện đương nhiên, được pháp luật công nhận quyền đại diện trong các hoạt động của doanh nghiệp, và có sự khác biệt so với Luật Doanh nghiệp 2005.
5 Điều 198A Luật Công ty Úc 2001, https://www.legislation.gov.au/Details/F2014C00922, truy cập ngày 20/02/2020
6 Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4, tr 15
7 Điều 157A Luật Công ty Singapore 2006, https://sso.agc.gov.sg/Act/CoA1967ProvIds=P1V-#pr157A-, truy cập ngày 20/02/2020
Bài viết của Phan Thành Nhân và Đỗ Thị Nhung (2018) trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật đề cập đến vai trò và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp Tác giả phân tích thực trạng pháp luật hiện hành và đưa ra những gợi ý nhằm hoàn thiện quy định liên quan Nội dung bài viết không chỉ giúp hiểu rõ hơn về vị trí của người đại diện mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay.
9 Đồng Ngọc Ba (2004), “Quan hệ về doanh nghiệp – Một số vấn đề phương pháp luận”, Tạp chí Luật học, số
10 Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015
8 có những bước tư duy mới về lập pháp trong quy định về NĐD theo pháp luật LDN
Năm 2005, pháp luật không quy định cụ thể về NĐD trong một điều khoản riêng biệt, mà phân tán trong nhiều điều khoản khác nhau của từng loại hình doanh nghiệp, dẫn đến sự không rõ ràng khi áp dụng các quy định này trong thực tế.
Luật Doanh Nghiệp 2014 đã tiến bộ trong việc định nghĩa NĐD theo pháp luật doanh nghiệp, tuy nhiên, cần làm rõ rằng trong khoa học pháp lý và thực tiễn hợp đồng, việc xác lập giao dịch là hoạt động thiết yếu cho mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp Người có thẩm quyền đại diện cho doanh nghiệp trong các giao dịch chính là NĐD theo pháp luật Bên cạnh đó, Luật Doanh Nghiệp 2014 không nhất quán trong việc định nghĩa NĐD so với Bộ Luật Dân Sự 2015, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong quy định.
Cơ sở hình thành mối quan hệ đại diện giữa người đại diện theo pháp luật với
1.2 Cơ sở hình thành mối quan hệ đại diện giữa người đại diện theo pháp luật với doanh nghiệp
Trong cuộc sống, để thực hiện mục tiêu cá nhân, các cá nhân cần chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự Hoạt động này là một yếu tố tất yếu và diễn ra thường xuyên, từ đó đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan.
Nguyễn Tuấn Vũ (2019) đã đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện dự thảo luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp liên quan đến người đại diện theo pháp luật Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (2019), trang 57.
12 Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp 2014”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2015, tr.18
Ngô Gia Hoàng và Nguyễn Thị Thương (2016) trong bài viết “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2016, trang 49, đã phân tích vai trò và quyền hạn của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, đồng thời chỉ ra những thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt trong việc thực thi quyền này.
Trong xã hội, không phải ai cũng có thể tham gia đầy đủ vào mọi hoạt động do nhiều lý do khác nhau, vì vậy vấn đề đại diện trở nên cần thiết Qua sự đại diện, các chủ thể có thể đáp ứng nhu cầu mà không cần huy động toàn bộ năng lực của mình Quan hệ đại diện là một mối quan hệ xã hội giữa người đại diện và người được đại diện, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý Phương thức đại diện là yếu tố không thể thiếu trong mọi chế độ phát triển, dựa trên sự phân công lao động trong sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ Nếu không có quan hệ đại diện, doanh nghiệp cũng không thể hình thành, vì công ty, với tư cách pháp nhân, không thể hành động độc lập mà chỉ có thể thông qua những người quản lý cụ thể Do đó, quyền và nghĩa vụ của công ty phải được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện theo quy định của pháp luật.
Học thuyết NĐD đã được các học giả nghiên cứu để lý giải mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người quản lý trong doanh nghiệp Adam Smith trong "Wealth of Nation" cho rằng người quản lý sẽ không đạt hiệu quả cao khi quản lý tài sản của người khác, dẫn đến xung đột lợi ích và thất thoát Các cổ đông không nên quá kỳ vọng vào người quản lý, vì họ có xu hướng tìm kiếm lợi ích cá nhân hơn là vì lợi ích công ty Điều này dẫn đến sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong doanh nghiệp Nhiều học giả đã phân tích vấn đề này và đưa ra giải pháp nhằm liên kết mục tiêu kinh doanh với chi phí bồi thường cho người quản lý Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật trong việc quy định về đại diện, nếu không sẽ gây khó khăn cho hoạt động của công ty.
14 Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 1), Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, trang 157
15 Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, tr.431
16 Bùi Xuân Hải, tlđd (6), tr15
17 Adam Smith (1776), The Weath of Nations, tr.800
18 Fama, E F., & Jensen, M C (1983), Separation of ownership and control Journal of Law and Economics, 26(2), tr 302
NĐD không phải là chủ sở hữu doanh nghiệp, nhưng vai trò của họ theo luật doanh nghiệp là rất quan trọng và cần được xác định rõ ràng Sự phát triển của pháp luật doanh nghiệp cùng với việc phân tách quyền sở hữu, quản lý và kiểm soát đã tạo ra mối quan hệ giữa NĐD và doanh nghiệp Doanh nghiệp phụ thuộc vào NĐD, vì họ không thể tác động trực tiếp đến thế giới vật chất Doanh nghiệp "ủy thác" cho NĐD thực hiện các hoạt động kinh doanh, và đi kèm với quyền hạn đó là nghĩa vụ và trách nhiệm tương ứng của NĐD.
Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Quyền đại diện theo pháp luật của NĐD theo pháp luật có thể được xác lập theo những căn cứ quan trọng sau:
1.3.1 Theo Điều lệ công ty
LDN 2014 đã khẳng định nguyên tắc tôn trọng tự do kinh doanh, cho phép doanh nghiệp chủ động xác lập người đại diện theo pháp luật (NĐD) Để công nhận một cá nhân là NĐD theo pháp luật, cần ghi rõ trong Điều lệ công ty, xác định ai là NĐD, điều kiện trở thành NĐD, cũng như thẩm quyền và nghĩa vụ của họ NĐD không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ, đóng vai trò quan trọng trong việc chứng minh sự tồn tại của NĐD theo pháp luật, giúp xác định rõ quyền và nghĩa vụ, đồng thời tạo cơ sở cho bên thứ ba nhận diện thẩm quyền của NĐD.
Luật Doanh nghiệp (LDN) 2014 đã cho phép các doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và công ty cổ phần (CTCP), có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật (NĐD) Điều này được quy định rõ ràng trong điều lệ công ty về số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của NĐD Sự thay đổi này tạo ra sự khác biệt so với LDN 2005, khi NĐD thường kiêm nhiệm vai trò điều hành và quản trị, dẫn đến khả năng lạm dụng quyền lực Việc cho phép doanh nghiệp tự quyết định số lượng NĐD nhằm tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý.
19 Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, việc có nhiều người đại diện theo pháp luật giúp các doanh nghiệp lớn quản lý hiệu quả hơn trong bối cảnh mô hình công ty phức tạp và số lượng dự án, nhân sự lớn Quy định này giảm bớt quyền hạn và trách nhiệm của một người đại diện, cho phép họ tập trung vào việc thực hiện quyền và nghĩa vụ mà không bị quá tải Hơn nữa, việc phân quyền này tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động linh hoạt, đặc biệt trong các tình huống như người đại diện không cư trú trong nước, bị tạm giam, hoặc gặp vấn đề về năng lực hành vi dân sự.
1.3.2 Theo quy định của pháp luật
Pháp luật doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp tự do kinh doanh và lựa chọn cơ cấu tổ chức, nhưng đối với những loại hình doanh nghiệp đặc thù, cần có quy định cụ thể về NĐD để ngăn chặn lạm dụng quyền lực và trốn tránh trách nhiệm trong các tranh chấp pháp lý Đối với doanh nghiệp tư nhân (DNTN), Luật Doanh Nghiệp 2014 quy định chủ DNTN là NĐD theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh, dù có thể thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc Còn đối với công ty hợp danh (CTHD), tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật và quản lý hoạt động kinh doanh hàng ngày, với các hạn chế chỉ có hiệu lực nội bộ và đối với bên thứ ba khi được biết Mô hình CTHD thể hiện sự liên kết giữa các chủ sở hữu thông qua việc góp vốn và hoạt động kinh doanh cá nhân của từng thành viên hợp danh.
20 Ngô Huy Cương (2010), “Vài bình luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Khoa Học đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 26, tr 29
21 Khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp 2014
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh không thể từ bỏ tư cách người đại diện theo pháp luật Đối với công ty cổ phần (CTCP), luật cho phép doanh nghiệp tự do quy định người đại diện theo pháp luật, nhưng nếu chỉ có một người, thì người đó phải giữ chức danh Chủ tịch HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc Trong trường hợp CTCP có nhiều người đại diện theo pháp luật, Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc sẽ là những người đại diện Đối với công ty TNHH một thành viên, nếu Điều lệ không quy định khác, Chủ tịch Hội đồng thành viên sẽ là người đại diện theo pháp luật Tuy nhiên, đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, Luật Doanh nghiệp 2014 không chỉ rõ ai là người đại diện theo pháp luật khi Điều lệ không có quy định, do đó cần bổ sung quy định về vai trò của Chủ tịch Hội đồng thành viên và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong trường hợp này.
1.3.3 Theo chỉ định của Tòa án nhân dân
Luật Dân sự (LDN) đã bổ sung Tòa án như một chủ thể có quyền xác lập tư cách người đại diện theo pháp luật, thể hiện quyền lực nhà nước Trong những trường hợp đặc biệt, Tòa án có thẩm quyền được phép chỉ định người đại diện theo pháp luật trong quá trình tố tụng Quy định này là cần thiết và quan trọng, vì ngoài các quy định pháp luật hiện hành, doanh nghiệp cũng có thể là chủ thể xác lập tư cách người đại diện theo pháp luật.
Khi xảy ra mâu thuẫn và tranh chấp xã hội, cần có một cơ quan giải quyết dựa trên thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cá nhân Tòa án có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật trong hai trường hợp cụ thể: (i) khi họ là đương sự trong cùng một vụ việc.
Trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh đã phát hành Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (Tái bản lần 1, có sửa đổi và bổ sung) vào năm 2016, do Nhà xuất bản Hồng Đức và Hội Luật Gia Việt Nam phát hành, trang 120.
23 Khoản 7 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014
Trong trường hợp có 13 người được đại diện, quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện Hơn nữa, nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó cũng có thể mâu thuẫn với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc.
Trong thủ tục phá sản, sau khi quyết định mở thủ tục được ban hành, doanh nghiệp có thể thực hiện các hành vi như cất giấu, tẩu tán tài sản, thanh toán nợ không có bảo đảm, hoặc chuyển nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm Khi nhận thấy những hành vi này, Thẩm phán sẽ xem xét khả năng điều hành của người đại diện theo pháp luật và có thể quyết định thay đổi người đại diện theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, nhằm đảm bảo quản lý và thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Pháp luật cho phép Tòa án chỉ định người đại diện theo pháp luật, điều này không chỉ giúp quy trình tố tụng dân sự diễn ra thuận lợi mà còn ngăn ngừa xung đột lợi ích giữa người đại diện và doanh nghiệp, từ đó bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và các bên tham gia tố tụng.
Vai trò của người đại diện theo pháp luật đối với doanh nghiệp
NĐD theo pháp luật là yếu tố thiết yếu trong doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh Trong xã hội hiện đại, sự tồn tại của NĐD theo pháp luật là không thể thiếu Thiếu NĐD theo pháp luật, ngay cả trong thời gian ngắn, có thể gây ra nguy cơ đình trệ hoạt động kinh doanh, dẫn đến bế tắc và có thể buộc doanh nghiệp phải ngừng hoạt động Tóm lại, NĐD theo pháp luật có những vai trò chính quan trọng trong sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Thứ nhất, Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là chủ thể gắn liền với sự ra đời, tồn tại và chấm dứt của doanh nghiệp
Theo quy định của LDN 2014, doanh nghiệp phải đăng ký chức danh người đại diện theo pháp luật ngay từ khi thành lập và đăng ký Quy trình đăng ký doanh nghiệp được hướng dẫn tại Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT, đã được sửa đổi bởi Thông tư 02/2019/TT-BKHĐT Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp cần bao gồm thông tin và chữ ký của người đại diện theo pháp luật Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ Thông tin về người đại diện theo pháp luật sẽ được ghi rõ trên giấy chứng nhận.
24 Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
25 Khoản 2 Điều 47 Luật Phá sản 2014
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo khoản 3 Điều 29 LDN 2014 yêu cầu doanh nghiệp phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ Trong suốt quá trình hoạt động, người đại diện này đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành công ty Khi doanh nghiệp quyết định chấm dứt hoạt động thông qua giải thể hoặc phá sản, tư cách người đại diện theo pháp luật cũng sẽ chấm dứt theo.
Thứ hai, vai trò của người đại diện theo pháp luật trong mối quan hệ nội bộ bên trong doanh nghiệp
NĐD theo pháp luật là người đại diện cho chủ sở hữu doanh nghiệp, có quyền và nghĩa vụ quản lý công ty, bao gồm việc ra quyết định và định đoạt tài sản Họ cụ thể hóa ý chí của doanh nghiệp thành các chiến lược và thực hiện trong hoạt động hàng ngày NĐD theo pháp luật giữ vai trò quan trọng trong quản trị doanh nghiệp, giám sát các chức danh quản lý khác và có mối quan hệ mật thiết với người lao động Người lao động cần biết ai là NĐD theo pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp tranh chấp Trong tổ chức quản lý, NĐD thường được xác định rõ ràng, như trong CTCP, Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc là NĐD theo pháp luật, và trong công ty TNHH một thành viên, nếu không có quy định khác, Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty sẽ là NĐD theo pháp luật.
Thứ ba, người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp thực hiện các công việc đối với mối quan hệ bên ngoài
Trong khuôn khổ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ, NĐD thực hiện giao dịch dân sự nhân danh doanh nghiệp với các bên ngoài Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích, công ty được xem như một thực thể pháp lý, có trách nhiệm bằng tài sản của mình và có khả năng chịu trách nhiệm giống như một cá nhân Tuy nhiên, khi nhìn vào công ty, người khác không thể thấy
26 Bùi Xuân Hải, tlđd (6), tr 14
27 Khoản 2 Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014
28 Khoản 2 Điều 78 Luật Doanh nghiệp 2014
Doanh nghiệp không phải là một cá nhân mà chỉ là một thực thể vô hình được nhiều người biết đến Để thực hiện giao dịch và ký kết hợp đồng, các bên thứ ba cần xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Nếu người đại diện không thể thực hiện nhiệm vụ, họ có thể ủy quyền cho người khác, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về phạm vi ủy quyền Bên cạnh đó, người đại diện còn có trách nhiệm thực hiện các thủ tục với cơ quan nhà nước như đăng ký doanh nghiệp, thay đổi thông tin doanh nghiệp, đóng thuế và nộp phạt.
NĐD theo pháp luật đóng vai trò chủ chốt trong sự phát triển và ổn định của doanh nghiệp Để đạt được sự phát triển nhanh chóng, doanh nghiệp cần dựa vào năng lực của NĐD theo pháp luật.
Pháp luật cần được cải thiện về chế định của NĐD để hỗ trợ hoạt động doanh nghiệp diễn ra thuận lợi hơn trong thực tế.
Trong chương 1 của khóa luận, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến NĐD theo pháp luật doanh nghiệp, bao gồm các khía cạnh quan trọng về quy định và ứng dụng trong thực tiễn.
Tác giả giới thiệu khái niệm về NĐD theo pháp luật doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp 2014, đồng thời so sánh với định nghĩa NĐD tại một số quốc gia khác Bài viết đánh giá toàn diện lý luận và thực tiễn của pháp luật Việt Nam liên quan đến NĐD trong bối cảnh doanh nghiệp Ngoài ra, tác giả cũng trình bày tổng quan về cơ sở hình thành mối quan hệ giữa NĐD theo pháp luật và doanh nghiệp.
Tác giả phân tích các căn cứ để xác lập tư cách NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, nhấn mạnh rằng một chủ thể cần phải được xác lập bởi pháp luật, Điều lệ công ty hoặc do Tòa án chỉ định để trở thành NĐD Cuối cùng, tác giả xem xét vai trò quan trọng của NĐD theo pháp luật trong hoạt động kinh doanh, nhấn mạnh tầm quan trọng của nó đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
29 Nguyễn Ngọc Bích (2006), “Người đại diện pháp lý công ty”, Thời báo kinh tế Sài gòn, số 32/2006, tr 19
XÁC LẬP VÀ CHẤM DỨT TƯ CÁCH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
Điều kiện làm người đại diện theo pháp luật
Trong doanh nghiệp, mọi hành động của người đại diện theo pháp luật đều tạo ra quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp Nếu hành động không khôn khéo, có thể dẫn đến nhiều mối đe dọa về pháp lý và hiệu quả kinh doanh Do đó, để trở thành người đại diện theo pháp luật, một chủ thể cần đáp ứng các điều kiện nhất định.
2.1.1 Điều kiện theo quy định của pháp luật doanh nghiệp
Thứ nhất, NĐD theo pháp luật là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Theo Điều 137 BLDS 2015 và Điều 13 LDN 2014, NĐD theo pháp luật bao gồm cá nhân được chỉ định bởi pháp nhân hoặc Tòa án, và phải là cá nhân thực hiện các hoạt động nhân danh doanh nghiệp Mặc dù không quy định rõ về độ tuổi của NĐD trong doanh nghiệp, khoản 18 Điều 4 LDN 2014 xác định người quản lý doanh nghiệp bao gồm nhiều chức danh như chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, và các chức danh quản lý khác có thẩm quyền ký kết giao dịch theo Điều lệ công ty.
Trong mỗi loại hình doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật thường giữ các chức danh quản lý quan trọng Cụ thể, tại công ty TNHH, người đại diện có thể là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, trong khi tại công ty cổ phần, họ có thể là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc Theo Điều 18 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, cá nhân chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam Do đó, người đại diện theo pháp luật phải là cá nhân từ 18 tuổi trở lên.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được định nghĩa là khả năng xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự thông qua hành vi của chính mình Để được công nhận là người đại diện theo pháp luật, cá nhân cần phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
30 Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015
31 Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015
Theo quy định của pháp luật, chỉ những cá nhân từ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự mới có thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập và tự nguyện, đồng thời phải chịu trách nhiệm cho các hành vi của mình Những người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự không thể trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định rõ tiêu chuẩn đối với các chức danh quản lý, yêu cầu giám đốc, tổng giám đốc, và các thành viên hội đồng quản trị phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ Điều này tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa người đại diện theo pháp luật và doanh nghiệp, trong đó người đại diện phải có trách nhiệm với các hành vi thực hiện nhân danh doanh nghiệp Các quốc gia khác cũng có quy định tương tự, như Luật Công ty Singapore 2006 và Luật Công ty TNHH Đức, yêu cầu người đại diện phải đủ 18 tuổi và có năng lực pháp lý Việc quản lý doanh nghiệp là quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật, đòi hỏi họ phải có khả năng nhận thức và thực hiện trách nhiệm một cách hiệu quả.
Thứ hai, người đại diện theo pháp luật không thuộc trường hợp bị cấm quản lý doanh nghiệp
Theo quy định của LDN 2014, các cá nhân như cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp.
32 Khoản 2 Điều 145 Luật Công ty Singapore 2006
33 Điều 6 Luật Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đức 1892, sửa đổi bổ sung 2008, http://www.germanbusiness law.de/legislation/, truy cập ngày 20/02/2020
Trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam, có 18 chức danh quốc phòng được quy định, bao gồm sĩ quan và hạ sĩ quan chuyên nghiệp Tuy nhiên, những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp sẽ không nằm trong danh sách này Các đối tượng này còn được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật liên quan, như Luật Viên chức 2010 và Luật Phòng chống tham nhũng.
Pháp luật Việt Nam quy định rằng các cá nhân làm việc trong cơ quan nhà nước không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, nhằm ngăn chặn lạm dụng chức vụ để tư lợi Đặc biệt, cán bộ lãnh đạo và quản lý trong doanh nghiệp nhà nước cũng bị cấm thành lập doanh nghiệp, trừ những người được ủy quyền quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp khác Doanh nghiệp nhà nước, với vốn điều lệ từ nguồn đầu tư của Nhà nước, yêu cầu cán bộ quản lý tập trung vào hoạt động của doanh nghiệp, nhằm tránh tình trạng lợi dụng doanh nghiệp nhà nước cho lợi ích cá nhân.
Ngoài ra, những đối tượng như người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh theo quyết định của Tòa án, cũng như các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản và phòng, chống tham nhũng, đều không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng pháp luật không quy định cụ thể các chủ thể không được làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà chỉ cấm họ thành lập và quản lý doanh nghiệp Quyền hạn và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật là quản lý doanh nghiệp, do đó, có thể suy luận rằng những chủ thể này cũng không được làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Ngoài các ngành nghề kinh doanh truyền thống yêu cầu nhà đầu tư phải đáp ứng những điều kiện tối thiểu theo pháp luật, một số lĩnh vực kinh doanh đặc thù còn yêu cầu nhà đầu tư phải có bằng cấp, chứng chỉ ngành nghề và trình độ chuyên môn kỹ thuật Điều này nhằm đảm bảo rằng chỉ những người có kiến thức và kinh nghiệm phù hợp mới được phép hoạt động trong các lĩnh vực này.
34 Điểm b, c khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014
35 Điểm d khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014
36 Điểm đ, e khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014
Có 19 lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật (NĐD) Trong lĩnh vực kiểm toán độc lập, NĐD phải là kiểm toán viên hành nghề Tương tự, trong lĩnh vực công chứng, NĐD của Phòng công chứng cần phải là Trưởng phòng và là công chứng viên, được bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
2.1.2 Điều kiện theo quy định nội bộ doanh nghiệp
Luật Doanh Nghiệp 2014 đã trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong việc xác định điều kiện chuyên môn và trình độ kỹ thuật của người đại diện theo pháp luật (NĐD) mà không quy định cụ thể Điều này cho phép doanh nghiệp tự định mức trình độ và kinh nghiệm cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi trong việc bổ nhiệm NĐD phù hợp với hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, việc thiếu tiêu chí rõ ràng về tiêu chuẩn NĐD có thể dẫn đến rủi ro cao, khi những cá nhân thiếu hiểu biết và kinh nghiệm được giao quyền hạn Do đó, doanh nghiệp cần cẩn trọng trong việc lựa chọn NĐD để tránh những hậu quả không lường trước do sự thiếu trách nhiệm trong quản lý.
Xác lập tư cách và thay đổi người đại diện theo pháp luật
Việc xác định tư cách của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp dựa trên Điều lệ công ty, quy định pháp luật hiện hành hoặc sự chỉ định của Tòa án.
37 Điều 21 Luật Kiểm toán độc lập 2011
38 Khoản 2 Điều 22 Luật Công chứng 2014
In their 2015 article, "Who Should Be a Director?", Patrick Gallagher and Nonna Martinov-Bennie explore the essential qualities and qualifications necessary for effective directorship They emphasize the importance of diverse skills, experience, and ethical standards in leadership roles The authors argue that a well-rounded director can significantly contribute to an organization's success and sustainability For further insights, the article is accessible at CPA Australia’s website.
1.3 Chương 1, pháp luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp được tự xác lập NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp Điều này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và quyền được tự định đoạt của các chủ doanh nghiệp
Trong giai đoạn đăng ký doanh nghiệp, NĐD theo pháp luật có thể đã được quy định trong các dự thảo Điều lệ, nhưng doanh nghiệp chưa được thành lập hợp pháp cho đến khi nhận Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Giấy chứng nhận này là văn bản "khai sinh" của doanh nghiệp, ghi nhận thông tin quan trọng, bao gồm cả NĐD theo pháp luật Khi cơ quan đăng ký cấp Giấy chứng nhận, doanh nghiệp chính thức có tư cách chủ thể kinh doanh độc lập, và người đứng tên trên Giấy chứng nhận cũng trở thành đại diện cho doanh nghiệp.
Việc thay đổi NĐD theo pháp luật chủ yếu xuất phát từ ý chí của doanh nghiệp, ngoại trừ những trường hợp được quy định trong Luật Phá sản 2014 Sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến cơ cấu quản lý nội bộ mà còn tác động lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba Các trường hợp có thể dẫn đến việc thay đổi NĐD theo pháp luật bao gồm nhiều yếu tố khác nhau.
NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ hết nhiệm kỳ khi các chức danh quản lý như Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, và Tổng giám đốc không được bầu lại Khi đó, tư cách NĐD theo pháp luật cũng cần được xem xét song song với tư cách chức danh quản lý Ngoài ra, NĐD theo pháp luật có thể bị thay đổi do Điều lệ công ty quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức các chức danh quản lý này.
Khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho ai thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý.
40 Nguyễn Tuấn Vũ, tlđd (11), tr 58
21 thì khi đó chủ sở hữu công ty, HĐTV, HĐQT sẽ cử người khác làm NĐD theo pháp luật của công ty 41 ;
(iii) Đối với CTHD, khi thành viên hợp danh chấm dứt tư cách thành viên và công ty tiếp nhận thành viên hợp danh mới 42 ;
Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, nếu có thành viên là cá nhân giữ vị trí người đại diện theo pháp luật bị tạm giam, kết án tù, trốn nơi cư trú, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì vị trí người đại diện theo pháp luật sẽ được chuyển giao cho các thành viên còn lại Điều này sẽ tiếp tục cho đến khi có quyết định mới từ Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty.
Khi doanh nghiệp thay đổi NĐD theo pháp luật, cần chuẩn bị hồ sơ đăng ký thay đổi theo quy định Nội dung và giấy tờ trong hồ sơ được quy định chi tiết bởi LDN 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP Sau khi nhận thông báo thay đổi, Phòng đăng ký kinh doanh sẽ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp.
Pháp luật đã thực hiện hiệu quả nguyên tắc tự do kinh doanh của doanh nghiệp, vì việc thay đổi nội dung doanh nghiệp theo quy định pháp luật là vấn đề nội bộ của chính doanh nghiệp đó.
Cơ quan nhà nước và pháp luật không thể can thiệp vào việc thay đổi nội dung doanh nghiệp (NĐD) của các công ty, nhưng pháp luật doanh nghiệp hiện vẫn thiếu kiểm soát hiệu quả để bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có thể âm thầm thay đổi NĐD nhằm trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm khi gặp khó khăn tài chính, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên thứ ba Do đó, cần xác định rõ thời điểm thay đổi NĐD theo pháp luật đối với công ty cổ phần (CTCP) và công ty TNHH để bảo đảm an toàn cho các giao dịch liên quan Tuy nhiên, vấn đề này vẫn tồn tại lỗ hổng pháp lý trong Luật Doanh Nghiệp (LDN), với nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm có hiệu lực của việc thay đổi NĐD.
41 Khoản 5 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014
42 Điều 180, Điều 181 Luật Doanh nghiệp 2014
43 Khoản 6 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014
Tại thời điểm doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới, việc ghi nhận thời điểm thay đổi người đại diện theo pháp luật (NĐD) là cần thiết để đảm bảo công khai và hợp pháp hóa các hoạt động của NĐD mới Tuy nhiên, điều này cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xác lập giao dịch, khi mà trong thời gian thực hiện thủ tục thay đổi, vị trí NĐD theo pháp luật có thể bị trống, dẫn đến khó khăn cho bên thứ ba trong việc xác định NĐD thực sự Do đó, theo nguyên tắc tự do kinh doanh, thời điểm có hiệu lực thay đổi NĐD nên do doanh nghiệp tự ấn định, phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 Luật này cho phép các nghị quyết có hiệu lực ngay từ ngày thông qua, và doanh nghiệp có trách nhiệm đăng ký thay đổi trong vòng 10 ngày Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp tự quyết định thời điểm thay đổi mà không thực hiện đăng ký, sẽ có nguy cơ không hợp thức hóa hành vi này, dẫn đến rủi ro trong giao dịch Vì vậy, cần có quy định cụ thể về chế tài đối với trường hợp doanh nghiệp không thực hiện việc đăng ký thay đổi NĐD theo pháp luật.
2.3 Chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật
Có nhiều lý do dẫn đến việc chấm dứt tư cách NĐD của doanh nghiệp theo quy định pháp luật Trong trường hợp doanh nghiệp không ngừng hoạt động, việc thay đổi NĐD phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.
44 Nguyễn Thị Thanh (2016), “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp số 08 (2016), tr 18
45 Khoản 2 Điều 31 Luật Doanh nghiệp 2014
Việc thay đổi tư cách NĐD theo pháp luật sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp chấm dứt tư cách đại diện của NĐD cũ Ngoài ra, khi doanh nghiệp giải thể, bị tuyên bố phá sản, hoặc thực hiện các sự kiện như sáp nhập, hợp nhất, chia tách, tư cách đại diện của NĐD cũng sẽ chấm dứt Tư cách NĐD sẽ ngừng hiệu lực từ ngày cơ quan đăng ký kinh doanh xóa tên doanh nghiệp Doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ thông qua hành vi của NĐD theo pháp luật; do đó, khi chấm dứt hoạt động, quan hệ đại diện pháp luật giữa doanh nghiệp và NĐD cũng sẽ tự động kết thúc, và quyền cũng như nghĩa vụ sẽ được thực hiện theo thỏa thuận hoặc quyết định của Tòa án.
Khi chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, trách nhiệm của người đại diện vẫn tiếp tục tồn tại Theo Luật Công ty Vương quốc Anh 2006, dù không còn là Giám đốc, cá nhân vẫn phải tuân thủ nghĩa vụ tránh xung đột lợi ích và không chấp nhận lợi ích từ bên thứ ba liên quan đến các hành động trước đó Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2014 không quy định cụ thể về trách nhiệm này, doanh nghiệp có thể chứng minh rằng những vi phạm nghĩa vụ của người đại diện trong thời gian họ đương chức đã gây thiệt hại cho doanh nghiệp, do đó cá nhân đó vẫn phải chịu trách nhiệm.
2.4 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Dựa trên các phân tích chi tiết trong chương 2, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm cải thiện hệ thống pháp luật về NĐD trong bối cảnh pháp luật doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn để trở thành người đại diện theo pháp luật (NĐD) trong Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014 chưa được quy định cụ thể trong một điều khoản riêng, mà phải dựa vào các điều khoản rải rác trong Bộ luật Dân sự (BLDS) và LDN Điều này cho thấy rằng pháp luật về công ty ở nhiều quốc gia, như Luật Công ty Úc 2001, thường quy định chặt chẽ các điều kiện để một người trở thành NĐD theo pháp luật của công ty, yêu cầu phải đáp ứng đủ mười điều kiện nhất định.
Theo Luật Công ty Singapore 2006, cá nhân từ 24 tuổi trở lên có quyền làm Giám đốc, trừ khi thuộc các trường hợp bị truất quyền Pháp luật chú trọng đến năng lực của người đại diện theo pháp luật, và nếu cá nhân vi phạm nghĩa vụ gây ảnh hưởng đến công ty, họ sẽ không thể làm người đại diện trong một khoảng thời gian nhất định Luật Doanh nghiệp 2014 quy định tiêu chuẩn người đại diện khá đơn giản, nhưng điều này có thể dẫn đến rủi ro cho doanh nghiệp khi đặt niềm tin vào những đối tượng không phù hợp Do đó, cần có quy định rõ ràng về tiêu chí và điều kiện làm người đại diện theo pháp luật, bao gồm cả trình độ năng lực quản lý và các trường hợp không đủ điều kiện, như việc cá nhân từng là người quản lý của doanh nghiệp phá sản mà không có sự xem xét của Tòa án.
Vấn đề ràng buộc doanh nghiệp đối với giao dịch của người đại diện theo pháp luật (NĐD) khi bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự là một khía cạnh quan trọng Khi NĐD không còn khả năng thực hiện các hoạt động nhân danh doanh nghiệp, họ không thể đại diện cho doanh nghiệp trong các giao dịch Tuy nhiên, hiện tại pháp luật không quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong trường hợp NĐD mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, dẫn đến việc doanh nghiệp có thể trốn tránh trách nhiệm và ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba Do đó, tác giả đề xuất cần bổ sung quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014, yêu cầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về hành vi của NĐD và đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với bên thứ ba ngay cả khi NĐD không đủ năng lực hành vi dân sự.
Về thời điểm phát sinh tư cách đại diện khi thay đổi NĐD theo pháp luật, tác giả đề xuất LDN 2014 cần quy định rõ ràng Việc thông báo thay đổi NĐD chỉ là thủ tục hành chính nhằm thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Thực tế, tư cách NĐD phát sinh ngay khi có sự thay đổi theo quy định pháp luật.
46 Điều 201 Luật Công ty Úc 2001
47 Điều 146 Luật Công ty Singapore 2006
Khi doanh nghiệp có quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật (NĐD), hiệu lực sẽ phát sinh ngay lập tức Do đó, Luật Doanh nghiệp 2014 cần bổ sung quy định rõ ràng về thời điểm phát sinh tư cách đại diện trong trường hợp này, cụ thể là từ thời điểm có hiệu lực của quyết định từ chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên, quyết định của Hội đồng thành viên trong công ty TNHH hai thành viên trở lên, hoặc quyết định của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông trong công ty cổ phần.
Thứ tư, về vấn đề trách nhiệm của NĐD theo pháp luật sau khi chấm dứt tư cách
Để đảm bảo NĐD theo pháp luật thực hiện đúng quyền hạn và nghĩa vụ, LDN cần quy định rõ trách nhiệm của chủ thể này sau khi chấm dứt tư cách pháp lý Tác giả đề xuất bổ sung quy định rằng: “Sau khi chấm dứt tư cách NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, NĐD đó vẫn phải có trách nhiệm đối với những nghĩa vụ của mình trong khoảng thời gian là NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.”
Trong chương 2, tác giả đã phân tích nội dung về việc xác lập và chấm dứt tư cách NĐD theo pháp luật, cụ thể với những nội dung sau:
Để trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, một chủ thể cần đáp ứng các điều kiện cơ bản như có năng lực hành vi dân sự, không thuộc nhóm đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp, cũng như đảm bảo các tiêu chí về chuyên môn và trình độ cho những ngành nghề kinh doanh đặc thù.
Tác giả phân tích quy trình xác lập tư cách pháp lý của người đại diện theo pháp luật trong doanh nghiệp, đồng thời nêu rõ các trường hợp dẫn đến việc thay đổi hoặc chấm dứt tư cách này theo quy định của pháp luật.
Vào thứ ba, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị nhằm điều chỉnh và bổ sung pháp luật doanh nghiệp liên quan đến các vấn đề như điều kiện trở thành nhà đầu tư theo quy định pháp luật, thời điểm xác lập tư cách nhà đầu tư, và trách nhiệm của nhà đầu tư trong trường hợp chấm dứt tư cách pháp lý của mình.