1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật trong luật doanh nghiệp 2014

74 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chế Định Người Đại Diện Theo Pháp Luật Trong Luật Doanh Nghiệp 2014
Tác giả Ngô Thị Huệ My
Người hướng dẫn ThS. Từ Thanh Thảo
Trường học Trường Đại Học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Thương Mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân Luật
Năm xuất bản 2017
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 74
Dung lượng 1,2 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN (13)
    • 1.1 Lý luận về đại diện (13)
      • 1.1.1 Nguồn gốc của quan hệ đại diện (13)
      • 1.1.2 Quan hệ pháp luật đại diện (15)
      • 1.1.3 Phân loại đại diện (17)
    • 1.2 Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (19)
      • 1.2.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (19)
      • 1.2.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (22)
      • 1.2.3 Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của (24)
    • 1.3 Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (27)
  • CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN (30)
    • 2.1 Điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật (30)
      • 2.1.1 Không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm làm người đại diện theo pháp luật (30)
      • 2.1.2 Điều kiện về cƣ trú (33)
      • 2.1.3 Các điều kiện khác (36)
    • 2.2 Số lượng người đại diện theo pháp luật (37)
    • 2.3 Chức danh quản lý của người đại diện theo pháp luật (41)
    • 2.4 Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật (45)
      • 2.4.1 Quyền hạn, nghĩa vụ (45)
      • 2.4.2 Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (51)
    • 2.5 Thay đổi, chấm dứt tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật (56)
      • 2.5.1 Thay đổi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (56)
      • 2.5.2 Chấm dứt tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật (58)

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN

Lý luận về đại diện

1.1.1 Nguồn gốc của quan hệ đại diện

Trong cuộc sống, để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần, các cá nhân thường tự thực hiện giao dịch dân sự Tuy nhiên, có những trường hợp họ không thể hoặc không muốn tham gia trực tiếp, do đó cần sự hỗ trợ từ người khác thông qua hình thức đại diện Phương thức đại diện này là cần thiết và không thể thiếu trong bất kỳ chế độ phát triển nào, đặc biệt trong bối cảnh phân công lao động trong sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ Nhờ vào đại diện, các quan hệ dân sự được củng cố và việc ký kết hợp đồng trở nên thuận tiện hơn cho các bên liên quan.

Trước công nguyên, luật La Mã không công nhận vấn đề đại diện do tính chất trọng hình thức đối với hợp đồng Tuy nhiên, theo thời gian, quan hệ đại diện đã phát triển hơn, đặc biệt từ giữa thế kỷ 19, khi các án lệ của các nước theo truyền thống thông luật khẳng định rằng công ty chỉ có thể hành động thông qua các Giám đốc, những người quản lý công ty Điều này nhấn mạnh rằng công ty là một thực thể pháp lý độc lập, không thể tự hành động mà cần có người đại diện Đến thế kỷ 20, các lý thuyết về đại diện đã xuất hiện trong nhiều nghiên cứu của các giáo sư luật, kinh tế và quản trị, với quan hệ giữa cổ đông và người quản lý được xem như quan hệ ủy thác Mối quan hệ này được hiểu như một hợp đồng, trong đó cổ đông bổ nhiệm người khác để quản lý công ty và trao quyền quyết định tài sản của công ty.

1 Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, p 431

Ngô Huy Cương (2009) trong bài viết "Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ Luật so sánh" đã phân tích các quy định về đại diện trong pháp luật Việt Nam, đồng thời so sánh với các hệ thống pháp luật khác Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 (252)/2009, trang 26, cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức đại diện được quy định và áp dụng trong bối cảnh pháp lý hiện hành.

3 Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí khoa học và pháp lý, số 4 (41)/2007 tr 22

Trong bối cảnh doanh nghiệp, sự xuất hiện của tình huống nắm sở hữu nhưng không quản lý, hoặc nắm quản lý nhưng không sở hữu, dẫn đến việc cần thiết phải áp dụng cơ chế quản trị công ty nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến đại diện.

Sau này, vấn đề đại diện đã được luật hóa để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong giao lưu dân sự Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan định nghĩa đại diện là hợp đồng giữa người thụ ủy và người chủ ủy, trong đó người thụ ủy được quyền hành động thay cho người chủ ủy với sự chấp thuận của họ Điều này xác định bản chất hợp đồng của quan hệ đại diện mà không đề cập đến phạm vi cụ thể của nó.

1804 - rất lâu trước khi Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan ra đời, quy định

Đại diện là hợp đồng trong đó một người chuyển giao quyền thực hiện công việc cho người khác nhằm phục vụ lợi ích của người được đại diện Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự của người đại diện cần được thực hiện "nhân danh" và "vì lợi ích" của người được đại diện, tương tự như quy định trong Bộ luật dân sự Việt Nam về đại diện.

Theo Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là hành vi của cá nhân hoặc pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự Định nghĩa này có nguồn gốc từ trường phái luật tự nhiên, tương tự như Bộ luật dân sự Pháp Điều này có nghĩa là nếu một người được ủy quyền ký kết hợp đồng nhưng không hành động dưới danh nghĩa của người được đại diện, thì sẽ không phát sinh hậu quả pháp lý cho người đó Hơn nữa, chỉ những người đại diện hợp pháp mới có quyền xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự thay mặt cho người được đại diện.

Trên nền tảng tự do ý chí, nhiều luật gia và nhà nghiên cứu đồng ý rằng mỗi cá nhân có khả năng thể hiện ý chí của riêng mình hoặc thông qua người khác Nếu không có luật đại diện, mọi người buộc phải tự hành động mà không thể sử dụng đại diện, điều này cũng khiến các công ty gặp khó khăn trong việc thực hiện các hành động cần thiết.

4 Hà Thị Thanh Bình (2015), “Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong quản trị công ty”,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10(330)/2015, tr 46

5 Điều 797 Bộ luật dân sự và Thương mại Thái Lan có hiệu lực từ ngày 01/01/1925

6 Điều 1984 Bộ luật dân sự Pháp

Trường phái luật tự nhiên nhấn mạnh rằng việc soạn thảo luật lệ phải dựa trên các quy luật và chuẩn mực của tự nhiên Theo định nghĩa của Bộ luật Dân sự 2015, quan hệ đại diện trong đời sống hàng ngày được diễn giải một cách tự nhiên và dễ hiểu, giúp các chức năng của nó trở nên rõ ràng Nếu không có chế định đại diện, những người không có năng lực hành vi dân sự sẽ không có cơ hội tham gia vào các giao dịch dân sự.

Vấn đề đại diện đã xuất hiện từ rất sớm và được pháp luật công nhận như một quan hệ xã hội quan trọng Đại diện đóng vai trò trợ giúp xã hội, cho phép một người sử dụng tri thức, khả năng và kinh nghiệm của người đại diện để thực hiện ý chí của mình Hiểu rõ nguồn gốc của chế định này giúp nắm bắt các quy định pháp luật liên quan, từ đó dễ dàng áp dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tế liên quan đến đại diện.

1.1.2 Quan hệ pháp luật đại diện Đại diện thực chất là một quan hệ pháp luật Trong quan hệ pháp luật đại diện, người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với người thứ ba chứ không phải nhân danh họ, với mục đích “vì lợi ích” của người được đại diện chứ không hoàn toàn vì lợi ích của họ Điều đó có nghĩa rằng mặc dù người đại diện giao dịch trực tiếp với người thứ ba nhưng quan hệ dân sự được xác lập giữa người được đại diện và người thứ ba Người được đại diện theo đó sẽ là người phải tiếp nhận và gánh chịu các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện do người đại diện đã xác lập, thực hiện đúng pháp luật Khi hiểu rõ được bản chất này của quan hệ pháp luật đại diện mới xác định đúng trách nhiệm của các bên Đặc biệt, trong doanh nghiệp hay có sự nhầm lẫn giữa trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật và trách nhiệm của doanh nghiệp, vấn đề này sẽ đƣợc phân tích cụ thể ở mục 2.4.1.1

Quan hệ pháp luật đại diện bao gồm các yếu tố: Chủ thể, khách thể và nội dung đại diện

1.1.2.1 Chủ thể của quan hệ đại diện

Quan hệ đại diện bao gồm hai chủ thể chính: người đại diện và người được đại diện Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật phải là cá nhân Để trở thành người đại diện, cá nhân cần có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đáp ứng các điều kiện pháp lý cần thiết.

9 Robert W Emerson and John W Hardwick (1997), Business Law, Barron’ s educational series Inc., p 247

Theo khoản 3 Điều 138 BLDS 2015, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể làm người đại diện theo ủy quyền, trừ những trường hợp pháp luật yêu cầu giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên thực hiện Để trở thành người đại diện, còn cần đáp ứng thêm các điều kiện khác tùy thuộc vào yêu cầu công việc, như không thuộc các trường hợp bị cấm làm người đại diện theo pháp luật, có ít nhất một người cư trú tại Việt Nam và có chuyên môn, kinh nghiệm nhất định Những quy định này nhằm đảm bảo hiệu quả và thuận lợi trong việc thực hiện quyền đại diện.

Người đại diện có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân, như doanh nghiệp tư nhân Tất cả hoạt động của doanh nghiệp đều phải thông qua hành vi của người đại diện Sự tồn tại của doanh nghiệp gắn liền với người đại diện theo pháp luật, vì vậy khi doanh nghiệp ngừng hoạt động, tư cách đại diện của người đại diện cũng chấm dứt.

1.1.2.2 Khách thể của quan hệ đại diện

Khách thể của quan hệ đại diện bao gồm các lợi ích và giá trị xã hội mà chủ thể tham gia hướng tới trong một hành động tích cực.

Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Doanh nghiệp có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân, bao gồm các loại hình như công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần Là một thực thể pháp lý độc lập, doanh nghiệp không thể tự mình thực hiện giao dịch mà cần thông qua những người đại diện theo pháp luật Khi thực hiện chức năng đại diện, người đại diện phải hành động nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp, từ đó tạo ra quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp trong các giao dịch với bên thứ ba.

1.2.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Theo định nghĩa của từ điển Black’s Law, người đại diện theo pháp luật được mô tả là cá nhân thực hiện các hành động pháp lý thay mặt cho một tổ chức hoặc cá nhân khác.

Người đại diện theo pháp luật được hiểu là những cá nhân thực hiện, quản lý hoặc giám sát công việc của người khác Tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn khá mơ hồ và có nhiều cách hiểu khác nhau.

Khái niệm người đại diện theo pháp luật được quy định khác nhau trong các hệ thống pháp luật quốc tế Tại Úc, người đại diện theo pháp luật là cá nhân được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện quyền hạn của doanh nghiệp Luật Anh xác định người đại diện là thành viên được ủy quyền thực hiện quyền hạn tương tự như công ty Ở Nhật Bản, người đại diện được hiểu qua vai trò của người quản lý, có quyền thực hiện các hành vi pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh Trong khi đó, Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn của Đức không đưa ra khái niệm rõ ràng, nhưng khẳng định rằng công ty sẽ do Giám đốc đại diện, hoặc nếu không có Giám đốc, sẽ do các cổ đông đại diện trong các tuyên bố hoặc tài liệu liên quan Như vậy, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật ở Đức được thể hiện qua vai trò của Giám đốc và cổ đông.

Qua nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia, có thể thấy rằng khái niệm "người đại diện theo pháp luật" của doanh nghiệp có sự khác biệt tùy theo từng quốc gia Tuy nhiên, nhìn chung, các luật pháp đều quy định rằng người đại diện theo pháp luật là cá nhân được doanh nghiệp chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn nhân danh doanh nghiệp.

21 Khái niệm “Legal Representative”, Black's Law Dictionary, http://thelawdictionary.org/legal- representative/, truy cập ngày 18/5/2017

22 Điều 250D Luật Doanh nghiệp Úc 2001, http://www.austlii.edu.au/au/legis/cth/consol_act/ca2001172/s250d.html, truy cập ngày 18/5/2017

23 Điều 323.2 Luật Công ty Anh 2006, http://www.legislation.gov.uk/ukpga/2006/46/section/323, truy cập ngày 19/5/2017

24 Điều 11.1 Luật Công ty Nhật Bản 2005, http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law/detail/?id 35&vm&re, truy cập ngày 19/5/2017

Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp (LDN) 2005 không quy định rõ về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà chỉ đề cập rải rác trong các điều khoản liên quan đến cơ cấu tổ chức của từng loại hình doanh nghiệp như Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và Doanh nghiệp tư nhân Tuy nhiên, LDN 2014 đã có bước tiến quan trọng khi dành riêng một điều khoản quy định thống nhất về người đại diện theo pháp luật Cụ thể, khoản 1 Điều 13 xác định rằng người đại diện theo pháp luật là cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đồng thời đại diện cho doanh nghiệp trong các vụ kiện và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Với khái niệm này, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là những

Cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện nhiều quyền và nghĩa vụ, bao gồm giao dịch và quan hệ tố tụng Sự quy định về nhiều người đại diện theo pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, khái niệm này chỉ tập trung vào việc “thực hiện” giao dịch mà không đề cập đến quyền hạn xác lập giao dịch, một yếu tố quan trọng của người đại diện Mặc dù có quy định cho phép thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo pháp luật, việc không nêu rõ quyền hạn này trong một luật chuyên ngành là một hạn chế Theo Điều 134 BLDS 2015, người đại diện phải nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự, cho thấy vai trò xác lập giao dịch là rất quan trọng trong việc xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Mặc dù còn một số thiếu sót, việc quy định rõ ràng khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong một điều luật cụ thể là một điểm mới quan trọng của Luật Doanh nghiệp 2014, giúp người đọc dễ dàng hiểu, nắm bắt và áp dụng.

26 Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp 2014”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (326)/2015, tr 18

1.2.2 Đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Dựa trên khái niệm và các quy định pháp luật liên quan, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có những đặc điểm cơ bản như sau: họ có quyền đại diện cho doanh nghiệp trong các giao dịch pháp lý, chịu trách nhiệm về các quyết định và hành vi của doanh nghiệp, đồng thời phải tuân thủ các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và các bên liên quan.

1.2.2.1 Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp Đặc điểm này không đƣợc thể hiện trong khái niệm ở khoản 1 Điều 13, tuy nhiên thông qua các quy định rải rác trong LDN 2014 có thể thấy đƣợc đặc điểm này Đối với DNTN, chủ DNTN là người đại diện theo pháp luật (khoản 3 Điều

Thành viên hợp danh là người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh, trong khi công ty TNHH và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật tùy vào nhu cầu Những người này phải giữ các chức danh quản lý cụ thể được quy định trong Điều lệ công ty, bao gồm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc/Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị, hoặc các chức danh khác như Giám đốc nhân sự và trưởng phòng kinh doanh.

Theo quy định tại khoản 18 Điều 4 của LDN 2014, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được xác định là người quản lý doanh nghiệp, có thẩm quyền ký kết giao dịch nhân danh công ty theo Điều lệ công ty So với LDN 2005, LDN 2014 nhấn mạnh rõ ràng hơn về vai trò của người đại diện pháp luật, yêu cầu họ phải có quyền hạn trong quản lý doanh nghiệp Điều này tạo ra sự thống nhất trong quản trị doanh nghiệp, bởi vì chỉ khi người đại diện có quyền quản lý, họ mới có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình một cách chủ động, từ đó tối đa hóa lợi ích mà pháp luật giao phó cho họ.

Người đại diện theo pháp luật là người quản lý doanh nghiệp, nhưng không phải mọi người quản lý đều là người đại diện theo pháp luật Chẳng hạn, trong trường hợp của CTCP A, Điều lệ quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật, trong khi Giám đốc của CTCP A, dù là người quản lý, lại không được chỉ định làm người đại diện theo pháp luật do Điều lệ không quy định điều này.

Cần phân biệt rõ ràng giữa người quản lý doanh nghiệp và nhân viên quản lý doanh nghiệp, vì đây là hai khái niệm khác nhau Nhân viên quản lý là những người đứng đầu các bộ phận như kế toán, dịch vụ khách hàng và nhân sự, phục vụ cho người quản lý doanh nghiệp Họ có nhiệm vụ cung cấp thông tin và tư vấn cho người quản lý, nhưng thường không có quyền quyết định.

1.2.2.2 Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân

Người đại diện theo pháp luật phải là một cá nhân cụ thể, như quy định tại khoản 1 Điều 13 của LDN 2014 Hầu hết các quốc gia cũng yêu cầu người đại diện phải là cá nhân, điều này phản ánh bản chất của doanh nghiệp như một thực thể pháp lý Doanh nghiệp không thể tự thực hiện quyền và nghĩa vụ, mà phải thông qua những cá nhân cụ thể làm người đại diện theo pháp luật để tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Người đại diện theo pháp luật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp Để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, sự hiện diện của người đại diện theo pháp luật là điều không thể thiếu Do đó, sự tồn tại của doanh nghiệp luôn gắn liền với vai trò của người đại diện theo pháp luật.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là điều kiện thiết yếu để doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hiệu quả Khi nộp hồ sơ đăng ký thành lập, Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp cần ghi rõ thông tin của người đại diện theo pháp luật Doanh nghiệp phải đảm bảo luôn có ít nhất một người đại diện cư trú tại Việt Nam Nếu chỉ có một người đại diện, người đó phải cư trú tại Việt Nam và trong trường hợp xuất cảnh, cần ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ, đồng thời vẫn phải chịu trách nhiệm về hoạt động của người được ủy quyền.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ thực hiện các công việc trong phạm vi ủy quyền, từ đó tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp.

Theo Khoản 8 và Khoản 9 Điều 24 LDN 2014, doanh nghiệp có quyền xác lập và ký kết hợp đồng, đồng thời là người đại diện tham gia tố tụng Trong trường hợp không thể hoàn thành nhiệm vụ, người đại diện có thể ủy quyền cho cấp phó hoặc quản lý khác thực hiện nhiệm vụ đó Tuy nhiên, bất kể có ủy quyền hay không, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân về nghĩa vụ đại diện của mình.

Người đại diện theo pháp luật không chỉ có vai trò pháp lý trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn là cầu nối trong các mối quan hệ nội bộ và ngoại bộ Họ thực hiện cơ chế kiểm soát và báo cáo với chủ sở hữu, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút và kết nối với đối tác, khách hàng để mở rộng hợp đồng Trong quan hệ với người lao động, họ quản lý và dẫn dắt, còn với cơ quan nhà nước, người đại diện đảm bảo thực hiện đúng các thủ tục như đăng ký doanh nghiệp, đóng thuế và nộp phạt, giúp doanh nghiệp hoạt động một cách trơn tru và hiệu quả.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa ý chí và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp Họ cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp chủ sở hữu đưa ra quyết định đúng đắn Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào năng lực và kết quả hoạt động của những người đại diện này Do đó, cần xây dựng một chế định người đại diện theo pháp luật hoàn thiện và dễ tiếp cận hơn, nhằm tăng cường sự chủ động và tự tin cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Ở chương 1, khóa luận đã khái quát được những vấn đề sau của chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp:

Quan hệ đại diện có nguồn gốc từ sự phân chia quyền lực và trách nhiệm giữa các chủ thể Để phân tích quan hệ đại diện, cần xem xét ba yếu tố chính: chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ Qua đó, có thể nhận diện và so sánh hai hình thức đại diện chủ yếu: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền, mỗi loại có những đặc điểm và quy định riêng.

Tác giả khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, bao gồm khái niệm và các đặc điểm chính Bài viết sẽ phân tích sâu hơn về căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật, nhằm làm rõ vai trò và trách nhiệm của họ trong hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ ba, tác giả phân tích những vai trò quan trọng của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Việc tìm hiểu về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cần thiết để người đọc có cái nhìn tổng quan về vai trò và chức năng của họ Điều này tạo nền tảng cho việc nghiên cứu sâu hơn về các quy định pháp luật liên quan và đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật trong chương 2.

QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

Điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật

Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phụ thuộc vào những cá nhân cụ thể, đặc biệt là người đại diện theo pháp luật Khi thực hiện các công việc đại diện, họ tạo ra quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp Do đó, vai trò của người đại diện theo pháp luật là rất quan trọng trong việc đảm bảo sự hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp.

2014 đã quy định những điều kiện cụ thể, rõ ràng để một người trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp một cách hợp pháp

2.1.1 Không thuộc các trường hợp bị pháp luật cấm làm người đại diện theo pháp luật

Luật Doanh nghiệp 2014 (LDN 2014) không đưa ra các tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể cho người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, mà chỉ quy định các tiêu chuẩn dành cho người đại diện theo ủy quyền Tuy nhiên, từ Điều 18 của LDN 2014, có thể suy ra các điều kiện cần thiết để một cá nhân trở thành người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp.

Theo quy định tại Điều 18 LDN 2014, người chưa thành niên không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam Điều này được làm rõ hơn bởi khoản 1 Điều 21 BLDS 2015, trong đó định nghĩa người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi Do đó, người đại diện theo pháp luật, người quản lý doanh nghiệp, phải đủ tuổi theo quy định pháp luật.

Pháp luật quy định rằng người chưa thành niên không được tham gia quản lý doanh nghiệp, điều này cũng có nghĩa là họ không thể làm người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp Do đó, chỉ những người từ đủ mười tám tuổi trở lên mới đủ điều kiện về độ tuổi để trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Theo tiểu mục 1.2.2.1, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý, và độ tuổi được coi là thước đo sự trưởng thành cũng như kinh nghiệm sống Tuy nhiên, việc cho rằng người cao tuổi hơn sẽ giỏi hơn là không chính xác, vì người trẻ tuổi vẫn có thể đủ năng lực làm việc Quy định về độ tuổi từ đủ mười tám trở lên là hợp lý, vì đây là độ tuổi mà cá nhân đã trở thành người thành niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện các giao dịch nhân danh doanh nghiệp Hơn nữa, người ở độ tuổi này cũng đủ nhận thức và trình độ để chịu trách nhiệm hình sự trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

2.1.1.2 Năng lực hành vi dân sự

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự thông qua hành vi của mình Theo Điều 18 LDN 2014, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không thuộc trường hợp mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22 và Điều 24 BLDS 2015.

Theo khoản 5 Điều 18, nếu người đại diện theo pháp luật gặp phải các tình huống như chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì chủ sở hữu công ty hoặc các cơ quan quản lý như Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị có quyền cử người khác thay thế làm người đại diện theo pháp luật cho công ty.

Theo Điều 81, khoản 3, điểm a và b, Giám đốc và Tổng giám đốc phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nếu không sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên Điều này khẳng định yêu cầu bắt buộc về năng lực hành vi dân sự đối với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, phù hợp với Điều 134, khoản 3 Bộ luật Dân sự 2015, quy định rằng người đại diện cần có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự tương ứng với giao dịch dân sự.

Luật Doanh Nghiệp 2005 không quy định điều kiện đối với người đại diện theo pháp luật, vì người đại diện chỉ bao gồm các quản lý doanh nghiệp như Giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị, những người này đã được yêu cầu phải có năng lực hành vi dân sự.

Điều 19 BLDS 2015 quy định rằng mỗi công ty cổ phần và công ty TNHH có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật, không chỉ giới hạn ở Giám đốc hay Chủ tịch Hội đồng quản trị Do đó, việc bổ sung quy định về năng lực hành vi dân sự của người đại diện theo pháp luật là cần thiết, vì điều kiện này ảnh hưởng đến hiệu lực của các giao dịch Nếu người đại diện bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, họ không thể thực hiện giao dịch nhân danh doanh nghiệp Luật dân sự Thái Lan quy định rằng nếu người được đại diện sử dụng người không có năng lực làm đại diện, họ vẫn bị ràng buộc bởi hành vi của người đại diện Điều này nhấn mạnh mối quan hệ giữa cá nhân đại diện và pháp nhân, yêu cầu pháp nhân phải biết về năng lực của người đại diện Mặc dù LDN 2014 không có quy định tương tự, nhưng nếu phát hiện người đại diện không đủ năng lực trong quá trình giao dịch, giao dịch đó có thể bị tuyên bố vô hiệu.

Theo quy định của LDN 2014, ngoài những trường hợp đặc thù, có một số đối tượng không được làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Cụ thể, những người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, hoặc bị xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện và giáo dục bắt buộc không đủ điều kiện đảm nhiệm vai trò này Ngoài ra, những cá nhân bị cấm hành nghề kinh doanh hoặc đảm nhiệm chức vụ liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án cũng không được phép làm người đại diện Điều này nhằm đảm bảo rằng những người đại diện có khả năng thực hiện và giám sát các hoạt động của doanh nghiệp, cũng như có quyền thực hiện các giao dịch nhân danh doanh nghiệp.

41 Điều 799 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan có hiệu lực từ ngày 01/01/1925

43 Điểm b, điểm c, điểm d khoản 2 Điều 18 LDN 2014

Người đại diện theo pháp luật phải tuân thủ các điều kiện riêng biệt tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, Giám đốc/Tổng giám đốc không được là người thân của quản lý công ty mẹ hoặc người đại diện vốn nhà nước Trong công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ hơn 50% phiếu biểu quyết, Chủ tịch Hội đồng quản trị không thể kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc hoặc Tổng giám đốc Đối với doanh nghiệp nhà nước, Giám đốc/Tổng giám đốc phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe theo Điều 100 LDN 2014 Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh khác nếu không có sự đồng thuận của các thành viên còn lại Hơn nữa, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân cũng không thể đồng thời là chủ hộ kinh doanh hoặc thành viên của công ty hợp danh.

2.1.2 Điều kiện về cƣ trú

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam, điều này nhằm đảm bảo khả năng giải quyết nhanh chóng các công việc nội bộ và giao dịch bên ngoài Khái niệm "cư trú" bao gồm cả thường trú và tạm trú, khác với Luật Doanh nghiệp 2005, nơi yêu cầu người đại diện phải "thường trú," khiến người nước ngoài không thể đảm nhận vai trò này Luật Doanh nghiệp 2014 đã mở rộng quy định này, cho phép người đại diện có thể cư trú tạm thời, tạo điều kiện cho cả công dân Việt Nam và người nước ngoài tham gia vào việc quản lý doanh nghiệp.

48 Tuy nhiên, Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn LDN 2005 đã thay thế từ “thường trú” thành “cư trú”

Nam trên cơ sở tiếp thu, kế thừa Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết LDN 2005

Đối với doanh nghiệp tư nhân (DNTN), người đại diện theo pháp luật bắt buộc phải cư trú tại Việt Nam Đối với các loại hình doanh nghiệp khác, cần có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam; nếu chỉ có một người duy nhất, người này cũng phải cư trú tại đây Khi người đại diện theo pháp luật duy nhất xuất cảnh khỏi Việt Nam, họ phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác đủ tiêu chuẩn thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Điều này có nghĩa là việc xuất cảnh sẽ phát sinh nghĩa vụ ủy quyền, không phụ thuộc vào thời gian xuất cảnh Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng yêu cầu người đại diện theo pháp luật phải ủy quyền khi vắng mặt.

Trong vòng 30 ngày, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền, mặc dù đã ủy quyền cho một người khác thực hiện những quyền và nghĩa vụ này.

Số lượng người đại diện theo pháp luật

Số lượng người đại diện theo pháp luật của Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) và Công Ty TNHH (CTHD) theo Luật Doanh Nghiệp 2014 không thay đổi Chủ DNTN vẫn là người đại diện theo pháp luật duy nhất, có quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp, có thể trực tiếp thực hiện hoặc thuê người khác đảm nhiệm công việc này.

54 Khoản 2 Điều 65, điểm b khoản 3 Điều 81, khoản 1 Điều 100 LDN 2014

Trong hai năm qua, quyền lực của lãnh đạo mới tại Vingroup đã trải qua nhiều thay đổi đáng chú ý Theo quy định pháp luật, người đại diện theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Khi số lượng chủ sở hữu tăng lên hơn một, doanh nghiệp sẽ chuyển từ loại hình doanh nghiệp tư nhân (DNTN) sang loại hình công ty nhiều chủ Những thay đổi này đã ảnh hưởng lớn đến cơ cấu và hoạt động của Vingroup trong thời gian gần đây.

Luật 199 LDN 2014 cho phép doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chuyển đổi thành công ty TNHH khi có hơn một chủ sở hữu Nếu chủ DNTN liên kết với người khác để trở thành thành viên của công ty TNHH hoặc cổ đông của công ty cổ phần, thì đó chỉ là hoạt động cá nhân của chủ DNTN và không làm tăng số lượng chủ sở hữu của DNTN.

Trong CTHD, tất cả các thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật, với số lượng tối thiểu là hai người và không giới hạn số lượng tối đa Nếu chỉ có một thành viên hợp danh trong thời gian liên tục 06 tháng, CTHD cần thực hiện thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, nếu không sẽ phải giải thể do không đủ số lượng thành viên tối thiểu.

Luật Doanh Nghiệp (LDN) 2014 đã bổ sung quy định mới tại khoản 2 Điều 13, cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) và công ty cổ phần (CTCP) có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật, với số lượng cụ thể do Điều lệ công ty quy định Điều này mang lại sự linh hoạt trong quản trị doanh nghiệp, cho phép các công ty nhỏ chỉ cần một người đại diện, trong khi các doanh nghiệp lớn hơn có thể cần nhiều người để phù hợp với quy mô và hoạt động phức tạp Quy định này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các giao dịch mà không cần ủy quyền từ người đại diện theo pháp luật, giúp tăng cường khả năng tận dụng cơ hội kinh doanh.

Điểm c khoản 1 Điều 201 LDN 2014 quy định về quản lý nội bộ, giảm tải trách nhiệm cho một cá nhân và tăng cường trách nhiệm cho những người được chỉ định là đại diện theo pháp luật Việc xác định rõ trọng trách của người đại diện theo pháp luật giúp họ chủ động thực hiện nghĩa vụ theo Điều lệ BLDS 2015 cũng thống nhất quy định này tại khoản 2 Điều 137, cho phép một pháp nhân có nhiều người đại diện theo pháp luật Quy chế này liên quan trực tiếp đến quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc lựa chọn địa bàn, hình thức kinh doanh và mở rộng quy mô, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp hội nhập nhanh hơn và tận dụng nhiều cơ hội phát triển.

Quy định mới cho phép doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật tương thích với luật pháp của các nước phát triển như Đức, Úc, Hoa Kỳ và Singapore Tại Đức và Úc, Giám đốc là người đại diện theo pháp luật và một doanh nghiệp có thể có nhiều Giám đốc Ở Hoa Kỳ, các vị trí như Tổng giám đốc, Chủ tịch và Giám đốc tài chính cũng đóng vai trò là người đại diện theo pháp luật trong phạm vi thẩm quyền được giao Tại Singapore, mỗi Giám đốc trong ban Giám đốc, như Giám đốc điều hành và Giám đốc nhân sự, đều có quyền đại diện cho công ty trong lĩnh vực của họ, đồng thời yêu cầu có ít nhất một Giám đốc thường trú tại quốc gia sở tại.

Khi một doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, việc phân công thẩm quyền giữa các đại diện này trở nên quan trọng Điều này đảm bảo rằng mỗi người có trách nhiệm rõ ràng và hiệu quả trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Việc xác định rõ ràng vai trò của từng đại diện giúp tránh xung đột và nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp.

57 Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động, tr 162

The German Limited Liability Company Act (GmbHG) of 2016, specifically Section 35.2, outlines the regulations governing limited liability companies in Germany For further details, you can refer to the official text available at [Gesetze im Internet](https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_gmbhg/englisch_gmbhg.html), accessed on May 21, 2017 Additionally, Section 201A of the Australian Corporations Act 2001 provides similar guidelines for business operations in Australia, with more information accessible at [AustLII](http://www.austlii.edu.au/au/legis/cth/consol_act/ca2001172/s250d.html), accessed on May 26, 2017.

59 Lê Thị Thu Thủy và Đỗ Minh Tuấn (2016), Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, Nhà xuất bản Tài chính, tr 157

Trong CTHD, các thành viên hợp danh cùng quản lý và kiểm soát hoạt động kinh doanh, với quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số, trừ khi có thỏa thuận khác Quyền và nghĩa vụ của các thành viên sẽ được quy định rõ trong Điều lệ của CTHD, trong khi đối với CTTNHH và CTCP, sự phân công này cũng được quy định trong Điều lệ Khi đăng ký doanh nghiệp, chữ ký của những người đại diện theo pháp luật có giá trị pháp lý như nhau, thể hiện sự bình đẳng trong quyền hạn Tuy nhiên, Điều lệ công ty đóng vai trò như "hiến pháp", xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người đại diện Nếu không xác định được phạm vi đại diện theo Điều lệ, người đại diện theo pháp luật có quyền thực hiện giao dịch, nhưng điều này có thể dẫn đến rủi ro nếu bên thứ ba không thể xác định tư cách đại diện, dẫn đến giao dịch với người không có thẩm quyền.

Quy định mới của Luật Doanh Nghiệp 2014 cho phép công ty TNHH và CTCP có nhiều người đại diện theo pháp luật đã được các doanh nghiệp áp dụng rộng rãi Từ ngày 01/7/2015 đến 31/10/2015, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh đã tiếp nhận và giải quyết 276 hồ sơ doanh nghiệp đăng ký với từ hai người đại diện theo pháp luật trở lên Điều này chứng tỏ quy định mới này đã thu hút sự quan tâm lớn từ các doanh nghiệp.

63 Khoản 1 Điều 4 Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp

Quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đang gặp nhiều thách thức trong quá trình áp dụng Nhiều doanh nghiệp bối rối khi một người đại diện ký văn bản trái ngược với người đại diện khác, gây ra sự hoang mang và tranh chấp giữa các nhóm cổ đông Để tránh tình trạng này, việc phân công rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong Điều lệ doanh nghiệp là rất quan trọng, đặc biệt trong trường hợp có nhiều người đại diện.

Chức danh quản lý của người đại diện theo pháp luật

Việc xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp rất quan trọng vì họ thực hiện giao dịch và tạo ra quyền, nghĩa vụ cho doanh nghiệp Mỗi cá nhân đại diện cần có chức danh quản lý cụ thể để xác lập tư cách đại diện dễ dàng Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2014 không định nghĩa chức danh quản lý, nhưng theo Điều 4 và Nghị định 97/2015, các chức danh quản lý bao gồm: Chủ DNTN, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc/Tổng giám đốc, cùng một số chức danh khác như Phó Giám đốc và Kế toán trưởng, có thẩm quyền ký kết các giao dịch nhân danh doanh nghiệp.

Chủ DNTN và thành viên CTHD không chỉ giữ vai trò quản lý trong doanh nghiệp mà còn đảm nhận chức danh Giám đốc DNTN Điều này cho thấy sự kết hợp giữa các chức danh quản lý trong tổ chức, phản ánh tính chất đa nhiệm của các vị trí này trong hoạt động kinh doanh.

Nhiều người đại diện theo pháp luật gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Mặc dù cần thiết, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong quy định pháp lý Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và hoạt động của các tổ chức Cần có sự điều chỉnh và cải cách để giải quyết những vấn đề này, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan.

Nghị định 97/2015/NĐ-CP quy định về việc quản lý các cá nhân giữ chức danh, chức vụ tại doanh nghiệp, cụ thể là các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ Nghị định này nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhân sự tại các doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho việc phát triển bền vững và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu.

Người đại diện theo pháp luật của DNTN bánh kẹo Á Châu là Giám đốc Kao Siêu Lực, trong khi Giám đốc Nguyễn Thị Son là người đại diện theo pháp luật của DNTN Thương mại và dịch vụ Son Vũ.

Trong CTHD, nếu Điều lệ không quy định khác, các thành viên sẽ bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc/Tổng giám đốc để quản lý nội bộ Mô hình này nhằm đảm bảo có một người điều hành các hoạt động của công ty, trong khi tất cả các thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật trong hoạt động kinh doanh hàng ngày Tuy nhiên, chỉ có Chủ tịch Hội đồng thành viên và Giám đốc/Tổng giám đốc mới có quyền đại diện cho CTHD trong quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các vụ kiện Đối với CTTNHH và CTCP, Điều lệ công ty sẽ quy định cụ thể chức danh người đại diện theo pháp luật, và công ty có quyền lựa chọn những người có chức danh quản lý nhất định Luật Doanh nghiệp 2014 không hạn chế chức danh quản lý nào được đảm nhận vị trí đại diện theo pháp luật, miễn là được quy định trong Điều lệ công ty Ngoài ra, Luật cũng quy định những chức danh quản lý sẽ tự động là người đại diện theo pháp luật của công ty, với Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện trong CTTNHH một thành viên nếu Điều lệ không quy định khác.

(http://www.hosocongty.vn/doanh-nghiep-tu-nhan-thuong-mai-va-dich-vu-son-vu-com-401624.htm), truy cập ngày 31/5/2017

68 Trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr 148

Theo quy định tại Điều 46, khoản 5 Điều 67, và Điều 95 của Luật Doanh Nghiệp 2005, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ bao gồm bốn chức danh: Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, và Chủ tịch Hội đồng quản trị Do đó, doanh nghiệp không được phép chỉ định người không giữ một trong các chức danh này, như thành viên Hội đồng thành viên, làm người đại diện theo pháp luật Mặc dù không được quy định cụ thể, nhưng Điều lệ và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp luôn thể hiện thông tin về người đại diện theo pháp luật Theo điểm e khoản 2 Điều 64 Luật Doanh Nghiệp 2014, Giám đốc/Tổng giám đốc có quyền ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ khi thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng thành viên Điều này cho thấy trong công ty TNHH hai thành viên trở lên, Giám đốc/Tổng giám đốc hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể là người đại diện theo pháp luật Tuy nhiên, để đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, cần có quy định bổ sung về trường hợp này trong một điều luật cụ thể Đối với công ty cổ phần, người đại diện theo pháp luật chủ yếu xoay quanh các chức danh quản lý: Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

Theo Điều 134 LDN 2014, các chức danh đứng đầu trong quản lý doanh nghiệp có trách nhiệm điều hành hoạt động hàng ngày và phải chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu Do đó, việc giao cho họ quyền đại diện cho doanh nghiệp trong các giao kết và thực hiện giao dịch với các chủ thể khác là một quy định hợp lý.

Trong trường hợp công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật, cả Công ty Cổ phần (CTCP) và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn (CTTNHH) có quyền tự quyết định các chức danh quản lý khác để đảm nhận vai trò đại diện theo pháp luật cho công ty của mình.

Luật Doanh nghiệp 2014 (LDN 2014) cho phép một cá nhân kiêm nhiều chức danh quản lý trong doanh nghiệp, ví dụ như Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty có thể đồng thời giữ chức Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, trừ khi có quy định khác trong pháp luật hoặc Điều lệ công ty Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng quản trị cũng có thể kiêm nhiệm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc Một điểm quan trọng được đặt ra là khả năng một người có thể là người đại diện theo pháp luật cho nhiều doanh nghiệp cùng lúc LDN 2014 đã bỏ quy định cấm Giám đốc/Tổng giám đốc công ty cổ phần không được kiêm nhiệm chức vụ tương tự ở doanh nghiệp khác, cho phép họ đồng thời là người đại diện theo pháp luật cho nhiều công ty, miễn là các công ty đó cũng quy định Giám đốc/Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật Hơn nữa, LDN 2014 không cấm người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH làm người đại diện cho doanh nghiệp khác.

Theo các quy định tại Khoản 1 Điều 57, Khoản 1 Điều 81, Khoản 2 Điều 85, Khoản 1 Điều 94 và Khoản 1 Điều 152 của Luật Doanh Nghiệp 2014, một cá nhân có năng lực và kinh nghiệm phong phú, cùng với điều kiện tài chính đầy đủ, có quyền làm việc cho nhiều doanh nghiệp khác nhau, miễn là không vi phạm các trường hợp cấm theo luật Quy định này không chỉ bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho công dân mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có thể đồng thời là người đại diện pháp luật cho doanh nghiệp khác, ngoại trừ DNTN khác và công ty hợp danh (CTHD) Trong khi đó, người đại diện theo pháp luật của CTHD cũng có quyền làm người đại diện cho doanh nghiệp khác Tuy nhiên, nếu người đại diện theo pháp luật của DNTN muốn đại diện cho một CTHD khác, cần phải có sự đồng ý của tất cả các thành viên hợp danh còn lại.

Các quy định hạn chế đối với chủ DNTN và thành viên hợp danh của CTHD được đưa ra nhằm đảm bảo trách nhiệm vô hạn của họ trong mọi hoạt động của doanh nghiệp Sự không tách bạch về tài sản giữa doanh nghiệp và chủ sở hữu khiến luật pháp cần thiết phải thiết lập những hạn chế này, nhằm bảo vệ khả năng chịu trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật và giảm thiểu rủi ro tài chính cho doanh nghiệp.

Khoản 3 Điều 141 BLDS có sự thống nhất với LDN khi quy định một cá nhân có thể đại diện cho nhiều pháp nhân khác nhau, đồng thời ràng buộc rằng “không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó” nhằm tránh sự xung đột về lợi ích và những tranh chấp xảy ra trong trường hợp người đại diện theo pháp luật đồng thời làm người đại diện theo pháp luật cho nhiều doanh nghiệp Thực tế có nhiều tình huống gây hiểu lầm đó là vi phạm, chẳng hạn nhƣ: Công ty A vay tiền của ngân hàng và công ty B đứng ra bảo lãnh Trong hợp đồng vay và bảo lãnh, ông C là người đại diện theo pháp luật cho cả A và B Tình huống này cho thấy không có vi phạm nào xảy ra vì việc bảo lãnh là giao dịch của B với ngân hàng chứ không với A, do đó không có xung đột lợi ích về thực hiện giao dịch của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Vấn đề mấu chốt ở đây là xác định rõ tư cách tham gia giao dịch của người đại diện theo pháp luật và doanh nghiệp: Nhân danh ai và vì lợi ích của ai xác lập, thực hiện các giao dịch Hiểu đƣợc điều này sẽ dễ dàng phân định trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp xảy ra

Chủ tịch Hội đồng thành viên và Giám đốc/Tổng giám đốc của doanh nghiệp nhà nước không được đồng thời giữ chức vụ người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp khác với cùng một chức danh.

Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp Quyền và nghĩa vụ này được hình thành dựa trên hành vi của người đại diện trong khuôn khổ pháp luật, Điều lệ công ty và các quyết định của Tòa án Khái niệm về người đại diện theo pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp.

Theo quy định tại LDN 2014, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật phát sinh từ các giao dịch của doanh nghiệp và việc đại diện trong quan hệ tố tụng Doanh nghiệp có quyền quyết định quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong Điều lệ công ty, cho phép điều chỉnh phạm vi đại diện dựa trên năng lực, chức danh quản lý và số lượng người quản lý.

2.4.1.1 Thực hiện các giao dịch của doanh nghiệp

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có quyền thực hiện các giao dịch, bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, có thể trực tiếp hoặc thông qua ủy quyền Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch kinh doanh, vì nó là căn cứ pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia Việc “thực hiện” giao dịch không chỉ đơn thuần là ký kết mà còn bao gồm việc đưa ra quyết định và thỏa thuận giữa các bên.

Luật Doanh Nghiệp 2014 đã quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong việc điều hành hoạt động kinh doanh và ký kết hợp đồng Đối với doanh nghiệp tư nhân (DNTN), chủ doanh nghiệp có quyền sử dụng vốn đầu tư một cách linh hoạt, đáp ứng nhu cầu kinh doanh và cá nhân Chủ DNTN có toàn quyền quyết định mọi hoạt động kinh doanh, mặc dù có thể thuê Giám đốc để quản lý, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Theo Khoản 1 Điều 185 LDN 2014, chủ DNTN phải đăng ký vốn với cơ quan đăng ký kinh doanh ngay từ khi khởi nghiệp Trong quá trình hoạt động, họ ký kết các hợp đồng cho thuê, bán hoặc tặng cho doanh nghiệp, và nghĩa vụ pháp lý của họ phụ thuộc vào tính chất của từng giao dịch Khi ký hợp đồng cho thuê, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý về hoạt động của doanh nghiệp Nếu chuyển đổi DNTN thành CTTNHH một thành viên hoặc CTTNHH hai thành viên trở lên, họ có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ chưa thanh toán Điều này do DNTN không có tư cách pháp nhân, buộc chủ DNTN phải đại diện cho doanh nghiệp trong mọi giao dịch và chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các giao dịch đó.

Trong công ty hợp danh (CTHD), thành viên hợp danh thực hiện các hoạt động kinh doanh và ký kết hợp đồng nhân danh công ty, với điều kiện có lợi nhất cho công ty Hạn chế đối với thành viên hợp danh chỉ có hiệu lực khi bên thứ ba biết đến Để bảo vệ quyền lợi của công ty và bên thứ ba, cũng như giảm thiểu nhầm lẫn về tư cách của thành viên hợp danh, Luật Doanh Nghiệp (LDN) quy định rằng thành viên hợp danh không được kinh doanh cá nhân hoặc thay mặt người khác trong cùng ngành nghề của công ty Quy định này nhằm ngăn chặn việc lợi dụng thông tin nội bộ để cạnh tranh với chính doanh nghiệp mà họ đại diện.

Trong CTTNHH, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc/Tổng giám đốc có quyền ký kết hợp đồng nhân danh công ty Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu những người này có quyền ký kết hợp đồng nếu họ không phải là người đại diện theo pháp luật hay không Điều này cần được xem xét dựa trên quy định tại khoản 1 Điều 142 BLDS 2015.

Theo điểm e khoản 2 Điều 64 và điểm e khoản 2 Điều 81 Luật Doanh Nghiệp 2014, các giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người đại diện Điều này có nghĩa là nếu Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc/Tổng giám đốc không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không được ủy quyền, họ sẽ không có thẩm quyền ký kết hợp đồng Điều này cũng cho thấy rằng khái niệm người đại diện theo pháp luật trong khoản 1 Điều 13 Luật Doanh Nghiệp 2014 đã bỏ qua vai trò quan trọng của họ trong việc xác lập các giao dịch, trong khi vai trò thực hiện chỉ là hệ quả tất yếu của vai trò này.

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty cổ phần (CTCP) có vai trò quan trọng trong việc điều hành các giao dịch hàng ngày mà không cần sự phê duyệt của Hội đồng quản trị, trừ khi Điều lệ công ty quy định khác Họ có quyền đưa ra các quyết định liên quan đến đầu tư, mua bán tài sản, hợp đồng thương mại và các giao dịch tài chính khác Chủ tịch Hội đồng quản trị cũng có thẩm quyền thực hiện các giao dịch nhưng không thuộc phạm vi điều hành hàng ngày, như phê duyệt kế hoạch đấu thầu và ký kết hợp đồng lao động Mặc dù luật cho phép Giám đốc, Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị thực hiện các công việc này, họ chỉ có quyền đại diện cho CTCP nếu được chỉ định là người đại diện theo pháp luật Với quy định mới, CTCP và công ty TNHH có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật, tạo điều kiện cho việc ký kết và thực hiện các giao dịch bởi nhiều cá nhân khác nhau, như Giám đốc Marketing.

76 Khoản 1 Điều 64, khoản 1 Điều 81 LDN 2014

78 Điều 33.3 Điều lệ Công ty cổ phần Tập đoàn Vingroup, http://www.vincharmspa.com/Uploads/0_Quan%20he%20co%20dong/0_Vingroup_2015/0_Thang_07/Dieu

%20le%20Vingroup-01072015fn.pdf, truy cập ngày 02/6/2017

Theo Khoản 4 Điều 28 trong Điều lệ Công ty cổ phần FPT, Giám đốc quảng cáo, Giám đốc sản xuất và Giám đốc kinh doanh chỉ được thực hiện các giao dịch như ký kết hợp đồng mua bán nguyên liệu, máy móc và hợp đồng bán hàng khi có sự ủy quyền từ người đại diện theo pháp luật, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005.

Đối với các giao dịch có giá trị lớn hoặc giữa công ty với người đại diện theo pháp luật và người liên quan, người đại diện không được tự quyết định mà phải có sự chấp thuận của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông Nếu các giao dịch này không được phê duyệt theo đúng thủ tục, chúng sẽ trở nên vô hiệu và các bên liên quan phải khôi phục tình trạng ban đầu như chưa từng thực hiện giao dịch.

Việc xác định thẩm quyền giao dịch của người đại diện theo pháp luật là vô cùng quan trọng để tránh tranh chấp và thiệt hại Trước khi ký kết hợp đồng, cần phân biệt rõ ràng giữa việc đại diện doanh nghiệp và cá nhân Trong vụ án số 60/2007/KDTM-ST, Tòa án đã xác định rằng hợp đồng vay vốn giữa bà Phạm Thái Hòa và ông Trương Vô Kỵ là cá nhân chứ không phải giữa bà Hòa và Công ty Chế biến thủy hải sản xuất khẩu Việt Mỹ, dẫn đến việc bà Hòa không thể kiện công ty mà phải kiện cá nhân ông Kỵ Tương tự, trong vụ việc của ông Otto De Jager, ông đã ký hợp đồng với tư cách giám đốc của Công ty Global Home, không phải với tư cách cá nhân, điều này cũng làm rõ ràng về trách nhiệm pháp lý trong các giao dịch.

Theo Điều 67, Điều 86, và Điều 162 của Luật Doanh Nghiệp 2014, ông Otto De Jager không chịu trách nhiệm trong sự việc này Mặc dù không có quy định cụ thể, nhiều bản án của Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định rằng người đại diện theo pháp luật không chịu trách nhiệm đối với các giao dịch hợp lệ của doanh nghiệp Khi xảy ra tranh chấp, người đại diện theo pháp luật không được coi là có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Đối với các giao dịch do người không có thẩm quyền thực hiện, doanh nghiệp sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ, trừ khi doanh nghiệp công nhận giao dịch, biết nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý, hoặc có lỗi dẫn đến việc người giao dịch không biết về quyền đại diện.

2.4.1.2 Đại diện trong các quan hệ tố tụng

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có quyền đại diện cho doanh nghiệp trong các vụ kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án, với vai trò nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Các hành vi tố tụng của họ được coi là giao dịch pháp lý đơn phương, phát sinh quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp Quyền đại diện này tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 và Luật tố tụng hành chính 2015 Mặc dù Luật Trọng tài thương mại 2010 không quy định cụ thể về vai trò của người đại diện theo pháp luật, nhưng Luật Doanh nghiệp 2014 xác nhận quyền đại diện của họ trong thủ tục Trọng tài.

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có quyền tham gia tố tụng trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác, tuy nhiên, quyền này không áp dụng cho tất cả đại diện mà còn phụ thuộc vào quy định pháp luật và Điều lệ công ty Ví dụ, trong CTHD, chỉ những người đại diện được chỉ định rõ ràng mới có quyền tham gia.

Thay đổi, chấm dứt tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật

Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, sự thay đổi cơ cấu tổ chức có thể dẫn đến việc thay đổi người đại diện theo pháp luật Khi người đại diện mới được bổ nhiệm, tư cách đại diện của người cũ sẽ chấm dứt và tư cách đại diện của người mới sẽ được xác lập.

Vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, người đại diện theo pháp luật có thể sẽ bị thay đổi trong các trường hợp như:

Khi hết nhiệm kỳ, các chức danh quản lý như Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, và Tổng giám đốc/Giám đốc thường có thời gian hoạt động cố định, thường là 05 năm Nếu không được bầu lại trong nhiệm kỳ mới, những người này sẽ bị thay đổi.

(ii) Bị miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức;

Chấm dứt hợp đồng lao động với Giám đốc, Tổng giám đốc hoặc các chức danh quản lý khác là những người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là một quy trình quan trọng Việc này cần tuân thủ các quy định pháp lý để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên.

Cổ đông đang đối mặt với nhiều khó khăn trong việc kiện lãnh đạo đòi bồi thường, theo thông tin từ bài viết của Bùi Trang Việc này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông mà còn đặt ra nhiều thách thức trong quá trình giải quyết tranh chấp Những khó khăn này cần được xem xét kỹ lưỡng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cổ đông.

91 Khoản 3 Điều 36 Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty đại chúng đƣợc ban hành kèm theo Thông tƣ 121

Trong quá trình hoạt động, Điều lệ công ty có thể được điều chỉnh để thay đổi người đại diện theo pháp luật, nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình hình hoạt động chung của doanh nghiệp.

(v) Trường hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp danh, tiếp nhận thành viên hợp danh mới;

(vi) Trường hợp chủ DNTN bán, tặng cho doanh nghiệp thì phải làm thủ tục thay đổi người đại diện theo pháp luật;

Trong một số trường hợp đặc biệt, như khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp qua đời, mất tích, phải chấp hành án phạt tù, hoặc khi người đại diện duy nhất không còn cư trú tại Việt Nam, doanh nghiệp cần có các biện pháp phù hợp để đảm bảo hoạt động liên tục và tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành.

Trong quá trình hoạt động, khi có sự thay đổi người đại diện theo pháp luật, doanh nghiệp cần đăng ký thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP Sau khi đăng ký, doanh nghiệp phải thông báo công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp Thời điểm phát sinh tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật mới thường gây tranh cãi; theo một số quan điểm, người đại diện mới có quyền đại diện ngay khi có quyết định thay đổi, không cần chờ giấy chứng nhận mới Thực tế cho thấy, việc thay đổi người đại diện diễn ra thường xuyên, nhưng thời gian thông báo công khai có thể kéo dài, gây khó khăn cho bên thứ ba trong việc xác định người đại diện hợp pháp Ví dụ, trong một vụ tranh chấp, Tòa án đã không làm rõ người đại diện theo pháp luật của một công ty, dẫn đến những khó khăn trong giao dịch Do đó, việc xác định chính xác người đại diện là rất quan trọng, đặc biệt trong các quan hệ làm ăn lâu dài, để tránh thiệt thòi cho bên thứ ba.

2.5.2 Chấm dứt tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật

Ngoài việc thay đổi người đại diện theo pháp luật dẫn đến việc chấm dứt tư cách của người đại diện cũ và xác lập tư cách của người đại diện mới, LDN 2014 cũng quy định những trường hợp khác làm chấm dứt tư cách đại diện của người cũ mà không xác lập người mới Các trường hợp này bao gồm doanh nghiệp chấm dứt hoạt động như hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể và phá sản.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật Dân sự 2015, khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động do các sự kiện pháp lý, tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cũng sẽ chấm dứt.

2.6 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Dựa trên phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định này.

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba trong các giao dịch với doanh nghiệp qua người đại diện theo pháp luật, cần xây dựng cơ chế rõ ràng Khi có nhiều người đại diện, quyền hạn và nghĩa vụ của họ được quy định trong Điều lệ doanh nghiệp, nhưng Điều lệ này thường chỉ mang tính chất nội bộ và có thể thay đổi theo thời gian, gây khó khăn cho bên thứ ba trong việc kiểm chứng Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ thể hiện thông tin cá nhân mà không chỉ rõ phạm vi đại diện Nếu bên thứ ba không được tiếp cận Điều lệ trước khi giao dịch, họ có thể giao dịch với người không có thẩm quyền đại diện Mặc dù Điều 141 BLDS 2015 quy định người đại diện phải thông báo phạm vi đại diện, nhưng không có trách nhiệm cụ thể nếu không thông báo Do đó, cần có cơ chế cho phép bên thứ ba tiếp cận Điều lệ và các văn bản nội bộ khác của doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi của họ.

Theo Điều 179 Luật Doanh Nghiệp 2014, quyền đại diện của các thành viên hợp danh trong Công ty Hợp Danh sẽ không bị ảnh hưởng về mặt pháp lý đối với bên thứ ba nếu bên đó không biết đến những hạn chế này khi thực hiện giao dịch Điều này có nghĩa là người đại diện vẫn giữ quyền đại diện đầy đủ và giao dịch sẽ không bị vô hiệu hóa Quy định này không phải là mới, vì Điều 11.3 của Luật Công ty Nhật Bản năm 2005 cũng khẳng định quyền đại diện đầy đủ của người đại diện đối với bên thứ ba không biết về những hạn chế Tóm lại, tác giả đề xuất nên quy định theo hướng “Mọi.”

Theo Điều 11.3 Luật Công ty Nhật Bản 2005, doanh nghiệp có trách nhiệm công bố thông tin về thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật để tránh rủi ro từ giao dịch vô hiệu Nếu bên thứ ba giao dịch với người đã thôi làm đại diện mà doanh nghiệp không thông báo, doanh nghiệp sẽ bị coi là có lỗi và giao dịch vẫn có hiệu lực Để bảo vệ uy tín và niềm tin của bên thứ ba, các quyết định của người đại diện phải được thực hiện đúng thẩm quyền và công bố chính thức Nếu có sự bất cập trong quyết định, người đại diện khác chỉ được phép giải quyết nội bộ mà không được quyền ra quyết định mới gửi cho bên thứ ba.

Thời điểm phát sinh tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp thay đổi người đại diện chỉ được xác lập từ ngày quyết định thay đổi có hiệu lực Việc doanh nghiệp đăng ký thay đổi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ là thủ tục hành chính và không phải là căn cứ xác lập quyền đại diện Để tránh rối rắm trong xác định tư cách đại diện và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin, các văn bản hướng dẫn LDN 2014 cần quy định rõ ràng về thời điểm này.

Để đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cần thiết phải sửa đổi và bổ sung một số điều luật hiện hành.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp 2014”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (326)/2015, tr. 18 - 22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp 2014”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Bùi Đức Giang
Năm: 2015
3. Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí khoa học và pháp lý, số 4 (41)/2007 tr 21 - 27, 43 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, "Tạp chí khoa học và pháp lý
Tác giả: Bùi Xuân Hải
Năm: 2007
4. Đỗ Văn Đại và Lê Thị Hồng Vân (2015), “Hoàn thiện quy định về đại diện trong Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2015, tr. 40 - 44 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện quy định về đại diện trong Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi”, "Tạp chí Kiểm sát
Tác giả: Đỗ Văn Đại và Lê Thị Hồng Vân
Năm: 2015
5. Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2016
6. Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam - bản án và bình luận bản án, Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hợp đồng Việt Nam - bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2017
7. Hà Thị Thanh Bình (2015), “Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong quản trị công ty”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10(330)/2015, tr. 45 - 52 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong quản trị công ty”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Hà Thị Thanh Bình
Năm: 2015
8. Lê Đức Nghĩa (2014), “Trách nhiệm “người quản lý” theo luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và lập pháp, số 04 (260)/2014, tr. 49 - 56 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm “người quản lý” theo luật công ty Việt Nam”, "Tạp chí Nghiên cứu và lập pháp
Tác giả: Lê Đức Nghĩa
Năm: 2014
9. Lê Thị Thu Thủy và Đỗ Minh Tuấn (2016), Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, Nhà xuất bản Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới
Tác giả: Lê Thị Thu Thủy và Đỗ Minh Tuấn
Nhà XB: Nhà xuất bản Tài chính
Năm: 2016
10. Lê Việt Phương (2013), Người đại diện theo pháp luật của công ty theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người đại diện theo pháp luật của công ty theo pháp luật Việt Nam
Tác giả: Lê Việt Phương
Năm: 2013
11. Lê Vương Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, Nhà xuất bản Tƣ pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật
Tác giả: Lê Vương Long
Nhà XB: Nhà xuất bản Tƣ pháp
Năm: 2006
12. Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam
Tác giả: Mai Hồng Quỳ
Nhà XB: Nhà xuất bản Lao động
Năm: 2012
14. Ngô Huy Cương (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 (252)/2009, tr. 26 - 31 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ Luật so sánh”, "Tạp chí Nhà nước và pháp luật
Tác giả: Ngô Huy Cương
Năm: 2009
16. Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty - Vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật doanh nghiệp 2005, Nhà xuất bản Tri thức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công ty - Vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật doanh nghiệp 2005
Tác giả: Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung
Nhà XB: Nhà xuất bản Tri thức
Năm: 2009
17. Nguyễn Thị Thanh (2016), “Người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 8/2016, tr. 17 - 20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp”, "Tạp chí Dân chủ và pháp luật
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh
Năm: 2016
18. Phan Thị Phương Hoa (2016), “Hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của người quản lý, điều hành doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số chuyên đề 02/2016, tr. 09 - 11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của người quản lý, điều hành doanh nghiệp”, "Tạp chí Kinh tế và dự báo
Tác giả: Phan Thị Phương Hoa
Năm: 2016
20. Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Những quy định chung về luật dân sự, Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Những quy định chung về luật dân sự
Tác giả: Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2013
21. Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh
Tác giả: Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2013
22. Trường đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản CAND Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật
Tác giả: Trường đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nhà xuất bản CAND
Năm: 1997
23. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự Thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam
Tác giả: Trường đại học Kiểm sát Hà Nội
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự Thật
Năm: 2016
24. Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp, Nhà xuất bản Dân trí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật về doanh nghiệp
Tác giả: Trương Nhật Quang
Nhà XB: Nhà xuất bản Dân trí
Năm: 2016

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w