1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ

60 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Miễn Trách Nhiệm Và Giới Hạn Trách Nhiệm Của Thương Nhân Kinh Doanh Dịch Vụ Logistics
Tác giả Dương Hoài My
Người hướng dẫn Ths. Nguyễn Thị Thanh Huyền
Trường học Trường Đại Học Luật Tp.Hcm
Chuyên ngành Luật Thương Mại
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 0,98 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. MIỄN TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG NHÂN KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS (10)
    • 1.1 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ (10)
    • 1.2 Miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics (11)
    • 1.3 Điều kiện áp dụng chế định miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics (15)
    • 1.4 Phạm vi miễn trách nhiệm (20)
    • 1.5 Căn cứ miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics (23)
      • 1.5.1 Miễn trách nhiệm theo quy định chung tại Điều 294 LTM (23)
      • 1.5.2 Miễn trách nhiệm áp dụng riêng đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ (32)
    • 1.6 Hậu quả của miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với thương nhân kinh (44)
      • 1.6.1 Trường hợp có căn cứ theo Điều 237 LTM (44)
      • 1.6.2 Trường hợp có căn cứ theo Điều 294 LTM 2005 (44)
    • 1.7 Vai trò của chế định miễn trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ (44)
  • CHƯƠNG 2. GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG NHÂN (47)
    • 1.1 Khái quát về giới hạn trách nhiệm (0)
    • 1.2 Quy định về giới hạn mức trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ (0)
      • 1.2.2 Mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp pháp luật liên quan không có quy định và các bên không có thỏa thuận (0)
      • 1.2.3 Mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp các bên có thỏa thuận (0)
      • 1.2.4 Giới hạn trách nhiệm trong trường hợp vận tải đa phương thức (0)
    • 1.3 Trường hợp không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm (0)

Nội dung

MIỄN TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG NHÂN KINH DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS

Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ

1.1 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

Logistics được hiểu là các hoạt động liên quan đến việc di chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, nhằm tối ưu hóa chu trình sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất bằng cách giảm thiểu thời gian và chi phí Là một hoạt động thương mại, dịch vụ logistics chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại 2005.

Dịch vụ logistics bao gồm các hoạt động như nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, làm thủ tục hải quan, tư vấn khách hàng, và đóng gói bao bì, tất cả đều liên quan đến hàng hóa, đặc biệt là vận tải hàng hóa Các dịch vụ di chuyển không liên quan đến hàng hóa, như vận chuyển hành khách và hành lý, không được coi là dịch vụ logistics mặc dù có quy định trong các luật chuyên ngành Hiểu rõ khái niệm logistics giúp xác định phạm vi áp dụng và miễn trách nhiệm trong lĩnh vực này.

Thù lao của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được xác định dựa trên việc hoàn thành các yêu cầu của khách hàng, không phải từ việc sản xuất hay tác động trực tiếp đến hàng hóa Hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên Khi hợp đồng có hiệu lực, các bên phải tuân thủ thỏa thuận theo nguyên tắc pacta sunt servanda, tức là thực hiện hợp đồng với thiện chí và trung thực Nếu thương nhân không hoàn thành nghĩa vụ, sẽ bị áp dụng chế tài theo quy định pháp luật hoặc thỏa thuận Theo Điều 351 Bộ luật dân sự 2005, bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự với bên có quyền.

1 Ngọc Hoài Nam (2009), Logistics trong hoạt động ngoại thương Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.12

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có 5 trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng, bao gồm nghĩa vụ tiếp tục thực hiện công việc, thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 Khác với Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005 sử dụng thuật ngữ "chế tài" để chỉ các trách nhiệm pháp lý phát sinh từ vi phạm hợp đồng, nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm Vi phạm hợp đồng có thể dẫn đến các chế tài tài chính theo Điều 292 Luật Thương mại 2005, bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngưng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng Các bên cũng có thể thỏa thuận về các biện pháp khác, miễn là không trái với nguyên tắc pháp luật Việt Nam.

Trong bối cảnh hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics, hành vi vi phạm hợp đồng có thể dẫn đến việc áp dụng các chế tài theo Điều 292 LTM 2005 Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý cần được xem xét dựa trên từng hoàn cảnh cụ thể của hành vi vi phạm Không phải mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý bằng chế tài, mà việc áp dụng chế tài phải tuân thủ quy định pháp luật và đáp ứng các điều kiện nhất định.

Miễn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

Căn cứ miễn trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics được quy định tại Điều 237 và Điều 294 LTM 2005, cùng với các luật chuyên ngành như BLHH 2015, Luật HKDD, Luật GTĐB, và Luật Đường sắt Mặc dù đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp lý, nhưng hiện tại vẫn chưa có điều khoản nào giải thích rõ ràng về khái niệm “miễn trách nhiệm” hay “miễn trách nhiệm” liên quan đến hành vi vi phạm của thương nhân trong lĩnh vực logistics Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, cần phải xem xét từ khái niệm “trách nhiệm” trong ngành dịch vụ.

Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện công việc đã cam kết, bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện, tự mình thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện công việc đó Đồng thời, bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại phát sinh.

Rất tiếc, không tìm thấy trang này.

6 nhiệm do vi phạm hợp đồng của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics Theo đó,

"Miễn trách nhiệm" là khái niệm mà một bên không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi do vi phạm hợp đồng, theo quy định của pháp luật hoặc thỏa thuận giữa các bên Theo Điều 358 BLDS 2015, miễn trách nhiệm trong lĩnh vực logistics bao gồm việc miễn trách nhiệm tiếp tục thực hiện công việc và miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại Trong thương mại, "trách nhiệm" liên quan đến vi phạm hợp đồng được xác định rõ ràng.

Các biện pháp chế tài trong thương mại rất đa dạng, và việc miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng không chỉ dừng lại ở việc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại Để xác định trách nhiệm được miễn, cần xem xét ba vấn đề cơ bản: có hành vi vi phạm, trách nhiệm phát sinh và các trường hợp áp dụng miễn trách nhiệm Không phải vi phạm nào cũng dẫn đến chế tài, và nếu vi phạm không làm phát sinh trách nhiệm, vấn đề miễn trách nhiệm sẽ không được đặt ra Một số chế tài có tính răn đe cao và yêu cầu điều kiện áp dụng khó khăn hơn, như phạt vi phạm chỉ được thực hiện khi có thỏa thuận trong hợp đồng LTM 2005 cho phép kết hợp một số biện pháp chế tài, nhưng việc áp dụng đồng thời phải đảm bảo không trái ngược về tính chất Do đó, hầu hết các trường hợp vi phạm không được miễn tất cả các chế tài.

Khúc Thị Thùy Trang (2014) trong luận văn thạc sĩ của mình tại Đại học Luật Hà Nội đã phân tích các vấn đề liên quan đến miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam Nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về các quy định và điều kiện áp dụng miễn trách nhiệm trong bối cảnh pháp lý hiện hành.

8 Điều 299 LTM 2005: “Quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các loại chế tài khác

1 Trừ trường hợp có thoả thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác

Quy định về miễn trách nhiệm trong các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thực hiện hợp đồng được nêu rõ trong LTM 2005 Theo Điều 294, bên vi phạm sẽ không bị áp dụng chế tài nếu có căn cứ miễn trách nhiệm Tuy nhiên, đối với chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên vi phạm không được miễn trách nhiệm ngay cả khi có căn cứ miễn Điều này tạo ra mâu thuẫn, đặc biệt khi vi phạm xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc quyết định của cơ quan nhà nước Luật nên cho phép các bên tự thỏa thuận về việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng hoặc chờ đợi sự kiện bất khả kháng qua đi Điều 296 LTM 2005 cho phép các bên kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng, nếu không thực hiện được, bên vi phạm có quyền từ chối hợp đồng mà không phải bồi thường Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, thương nhân cung cấp dịch vụ logistics có thể miễn trách nhiệm bồi thường khi hàng hóa không thể vận chuyển do sự kiện bất khả kháng, dẫn đến lô hàng bị hư hỏng và không còn giá trị sử dụng.

2 Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.”

Pháp luật thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thông qua nhiều quy định về miễn trách nhiệm Đầu tiên, dịch vụ logistics, với tư cách là hoạt động thương mại, được miễn trách nhiệm khi đáp ứng các điều kiện tại Điều 294 LTM, quy định chung về miễn trách nhiệm Thứ hai, do những đặc thù riêng biệt, LTM đã dành một chương riêng để điều chỉnh hoạt động này, cụ thể là Điều 237, quy định các căn cứ miễn trách nhiệm cho thương nhân dịch vụ logistics, bên cạnh những trường hợp miễn trách nhiệm theo Điều 294 Thêm vào đó, các quy định về miễn trách nhiệm trong pháp luật chuyên ngành vận tải cũng được ưu tiên áp dụng cho dịch vụ logistics Dù áp dụng miễn trách nhiệm theo điều khoản nào, trách nhiệm được miễn đều phát sinh từ hợp đồng và do vi phạm cam kết giữa các bên, khác với quy định miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Khoản 2 Điều 584 BLDS 2015.

Ngành dịch vụ logistics phải đối mặt với nhiều mối hiểm nguy không thể dự đoán được, dẫn đến quy định về miễn trách nhiệm Rủi ro trong hoạt động kinh doanh logistics rất đa dạng, bao gồm sự không chắc chắn trong thị trường tài chính, thất bại của dự án, trách nhiệm pháp lý, rủi ro tín dụng, tai nạn, thiên tai, tấn công từ đối thủ, và các sự kiện không thể đoán trước Theo Walter (2011), rủi ro trong dịch vụ logistics có thể được phân loại thành ba loại: rủi ro liên quan đến dòng tài chính, rủi ro dòng thông tin và rủi ro liên quan đến dòng vật chất.

Về khía cạnh pháp lý, rủi ro chính trong lĩnh vực logistics đến từ nghĩa vụ thực hiện theo yêu cầu của khách hàng để nhận thù lao Trong thực tế, các tình huống bất ngờ thường xảy ra, đòi hỏi thương nhân phải ứng biến linh hoạt Tuy nhiên, việc bị ràng buộc theo chỉ dẫn có sẵn khiến các doanh nghiệp logistics rơi vào thế bị động Không có đảm bảo rằng các chỉ dẫn của khách hàng luôn chính xác và hiệu quả trong việc xử lý tình huống khẩn cấp.

Dương Hữu Tuyến và Đinh Hữu Thạnh đã nghiên cứu về mối tương quan giữa việc nhận diện rủi ro và các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam Nghiên cứu này được công bố trong Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, số 67 vào tháng 12 năm 2018 Kết quả cho thấy rằng việc nhận diện rủi ro một cách hiệu quả có thể góp phần đáng kể vào việc giảm thiểu các rủi ro trong hoạt động logistics, từ đó nâng cao hiệu quả và độ tin cậy của các doanh nghiệp trong ngành này.

11 Dương Hữu Tuyến-Đinh Hữu Thạnh, tlđd

Các nhà cung cấp dịch vụ logistics có thể thực hiện khác đi chỉ dẫn của khách hàng nếu có lý do chính đáng và vì lợi ích của khách hàng, tuy nhiên, không thể đảm bảo rằng các giải pháp sẽ luôn hiệu quả Khi thiệt hại xảy ra, câu hỏi về trách nhiệm trở nên quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh thương nhân có thể phải bỏ qua lợi ích của khách hàng để bảo vệ bản thân Pháp luật cần quy định chặt chẽ hơn để bảo vệ quyền lợi của khách hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ logistics Ngoài ra, các rủi ro khách quan như thời tiết hay thiên tai cũng là thách thức lớn trong ngành này Hợp đồng logistics thường phụ thuộc vào sự hợp tác của bên thứ ba, bao gồm cả khách hàng và các đối tác liên quan Do đó, sự thành công của hợp đồng không chỉ dựa vào nỗ lực của nhà cung cấp dịch vụ mà còn cần sự phối hợp từ nhiều bên Để giảm thiểu rủi ro, pháp luật thương mại đã đưa ra các quy định về miễn trách nhiệm, nhằm bảo vệ lợi ích của thương nhân và khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực logistics Việc quy định rõ ràng và minh bạch về miễn trách nhiệm cũng giúp giảm chi phí quản lý rủi ro và tăng tính cạnh tranh cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics.

Điều kiện áp dụng chế định miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

Việc miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đƣợc xem xét dựa trên các căn cứ sau:

Trong trường hợp không thể thực hiện một phần hoặc toàn bộ chỉ dẫn của khách hàng, cần thông báo ngay cho khách hàng để xin chỉ dẫn bổ sung.

13 Bùi Ngọc Cường chủ biên (2008), Giáo trình Luật thương mại tập 2, Nxb Giáo dục, tr 36

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ phát sinh trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ, mặc dù có sự khác nhau về phạm vi miễn trách nhiệm giữa Điều 294 và Điều 237 LTM 2005 Cả hai điều khoản này đều quy định rằng để được miễn trách nhiệm, thương nhân phải có trách nhiệm phát sinh do vi phạm Điều này khác với quy định của BLDS 2015, nơi bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng Để được miễn trách nhiệm, vi phạm trước tiên phải làm phát sinh trách nhiệm Quy định về nghĩa vụ bên vi phạm phải thực hiện để được hưởng miễn trách nhiệm chứng minh rằng "vi phạm đã làm phát sinh nghĩa vụ" Nếu bên vi phạm không thực hiện các nghĩa vụ cần thiết như chứng minh hoặc thông báo, họ vẫn phải chịu trách nhiệm phát sinh mà không được miễn Trong trường hợp vi phạm không đủ để phát sinh trách nhiệm hoặc không có căn cứ để áp dụng chế tài, việc xem xét miễn trách nhiệm là không cần thiết.

Bên bị vi phạm có quyền áp dụng các biện pháp chế tài phù hợp với pháp luật và thỏa thuận giữa các bên để khắc phục hậu quả vi phạm Việc áp dụng phạt vi phạm yêu cầu có sự thỏa thuận trong hợp đồng và mức phạt không vượt quá 8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm, trừ trường hợp đặc biệt liên quan đến dịch vụ giám định theo quy định Nếu không có điều khoản thỏa thuận hoặc mức phạt vượt quá giới hạn này, phạt vi phạm sẽ không được áp dụng Đối với chế tài hủy hợp đồng, bên bị vi phạm chỉ có thể thực hiện khi có hành vi vi phạm đã được thỏa thuận là điều kiện hủy bỏ hoặc vi phạm đó là vi phạm cơ bản, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên kia.

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền được miễn trách nhiệm khi hành vi vi phạm phát sinh từ các căn cứ đã được thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật Điều này được quy định tại Điều 237 LTM 2005 hoặc Điều 294 LTM 2005, và cũng có thể theo các quy định của luật chuyên ngành Chỉ khi có các căn cứ này, bên cung ứng dịch vụ mới có thể được xem xét miễn trách nhiệm, điều này là điều kiện quan trọng nhất để xác định rằng hành vi vi phạm không phải do lỗi của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh để được miễn trách nhiệm theo Khoản 2, Điều 294 LTM 2005 Nếu không chứng minh được cơ sở miễn trách nhiệm, họ sẽ mất quyền lợi này Trong một vụ tranh chấp liên quan đến hư hỏng của 57 containers nho từ Chile đến Đông Âu, nguyên nhân hư hỏng được xác định do việc ngắt điện kéo dài, dẫn đến vi phạm nghĩa vụ chăm sóc hàng hóa của người vận chuyển Bị đơn cho rằng tổn thất là do các tình huống thông thường và yêu cầu nguyên đơn phải chứng minh lỗi của họ Tuy nhiên, theo tập quán hàng hải, người vận chuyển có nghĩa vụ đảm bảo nguyên trạng hàng hóa và chỉ được miễn trách nhiệm khi chứng minh tổn thất không phải do lỗi của mình Thẩm phán đã không đồng ý với lập luận của bên vận chuyển, khẳng định rằng trách nhiệm bảo quản hàng hóa vẫn thuộc về họ.

18 http://vlr.vn/logistics/ai-co-trach-nhiem-chung-minh-nguyen-nhan-ton-that-hang-hoa 3606.vlr truy cập ngày 05/05/2020

Theo quy định, khi có 12 khiếu nại với bằng chứng suy đoán về sự vi phạm, người vận chuyển phải chứng minh rằng một phần hoặc toàn bộ hàng hóa bị tổn thất là do nguyên nhân ngoài trách nhiệm của họ Nếu không thể cung cấp chứng minh, người vận chuyển sẽ phải chịu toàn bộ trách nhiệm bồi thường cho tổn thất xảy ra.

Trách nhiệm thông báo cho khách hàng về trường hợp miễn trách nhiệm và hậu quả có thể xảy ra là điều kiện cần thiết để được miễn trách nhiệm, theo quy định tại Khoản 1 Điều 295 LTM 2005, thông báo phải được thực hiện bằng văn bản ngay khi vi phạm xảy ra Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cần thông báo ngay khi căn cứ miễn trách nhiệm chấm dứt Việc không thông báo kịp thời có thể dẫn đến việc họ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng Khách hàng có quyền được biết thông tin về tình trạng hàng hóa để có thể đưa ra biện pháp khắc phục Mặc dù quy định về hình thức và thời gian thông báo theo LTM 2005 có phần cứng nhắc, nhưng trong thực tế, dịch vụ logistics cần linh hoạt hơn, cho phép thông báo nhanh chóng qua điện thoại hoặc tín hiệu đàm trong các tình huống khẩn cấp Ngoài ra, cũng cần xem xét những tình huống khách quan như thiên tai, khi việc khắc phục sự cố trở nên ưu tiên hơn việc thông báo cho khách hàng Do đó, quy định về thông báo cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn hoạt động logistics, nhằm đạt được mục đích miễn trách nhiệm.

Pháp luật yêu cầu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không chỉ có nghĩa vụ thông báo mà còn phải chứng minh đủ căn cứ để được miễn trách nhiệm Điều này cho thấy rằng việc miễn trách nhiệm không tự động áp dụng chỉ khi các điều kiện khác được đáp ứng Việc phân tích rõ ràng vấn đề này là cần thiết để hiểu rõ hơn về trách nhiệm của các thương nhân trong lĩnh vực logistics.

Trong pháp luật tố tụng dân sự, quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là rất quan trọng đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics Họ phải chịu trách nhiệm thực hiện quyền của mình, nếu không sẽ bị coi là từ bỏ quyền lợi Tòa án không có trách nhiệm chứng minh hay thay mặt cho thương nhân trong việc cung cấp chứng cứ.

Miễn trách nhiệm chỉ áp dụng cho thương nhân kinh doanh dịch vụ khi có hành vi vi phạm dẫn đến trách nhiệm, tuân theo quy định pháp luật hoặc thỏa thuận và đáp ứng yêu cầu thông báo, chứng minh Hệ quả của việc miễn trách nhiệm trong lĩnh vực logistics không cố định mà thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể Các trách nhiệm có thể được miễn bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại, miễn phạt vi phạm, quyền chấm dứt hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng, hoặc miễn nhiều trách nhiệm cùng lúc.

Trong trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không đáp ứng điều kiện bất khả kháng, cần xem xét khả năng áp dụng Điều 420 BLDS để yêu cầu đàm phán lại hoặc chấm dứt hợp đồng Mặc dù nghĩa vụ hợp đồng vẫn có thể thực hiện trong bối cảnh thay đổi hoàn cảnh cơ bản, nhưng việc thực hiện sẽ trở nên khó khăn và tốn kém hơn Do đó, pháp luật cho phép các bên tiến hành đàm phán để giảm thiểu tổn thất do những thay đổi này Ví dụ, trong hợp đồng dịch vụ logistics giữa bên vận chuyển (Bên A) và bên bán (Bên B), nếu hàng hóa bị ách tắc tại cửa khẩu do dịch bệnh Covid-19, các bên có thể thỏa thuận lùi thời hạn giao hàng để tránh bồi thường cho việc giao hàng trễ Những quy định này mang tính linh hoạt, giúp các bên vượt qua giai đoạn kinh tế khó khăn.

Trong tố tụng dân sự, quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự được quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, bao gồm 20 nguyên tắc quan trọng Những nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình xét xử, đồng thời tạo điều kiện cho các bên liên quan thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả.

21 http://www.viac.vn/tin-tuc-su-kien/su-kien-bat-kha-khang-nhung-diem-con-bo-ngo-va-goc-tiep-can-moi- n849.html truy cập ngày 05/05/2020

Phạm vi miễn trách nhiệm

Xác định phạm vi miễn trách nhiệm chính xác giúp bên vi phạm hiểu rõ những hậu quả mà họ không phải chịu, từ việc miễn toàn bộ trách nhiệm đến chỉ miễn một phần Đồng thời, bên bị vi phạm cũng cần có cách ứng xử phù hợp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong mối quan hệ hợp đồng.

Hành vi vi phạm có thể tạo ra trách nhiệm, nhưng mức độ miễn trách nhiệm lại khác nhau tùy thuộc vào bản chất của vi phạm và thái độ của các bên liên quan Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể được hưởng miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều 294 và Điều 237 của Luật Thương Mại 2005.

Căn cứ miễn trách nhiệm theo Điều 294 LTM 2005 áp dụng cho tất cả các hoạt động thương mại, bao gồm cả hoạt động logistics Trách nhiệm được miễn liên quan đến hành vi vi phạm hợp đồng, nhưng LTM 2005 không xác định rõ các trách nhiệm nào được miễn, dẫn đến nhiều tranh luận Theo các điều khoản khác như Điều 300, 303, 308, 310 và 312, có thể suy ra rằng các trách nhiệm được miễn bao gồm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, tạm ngưng nghĩa vụ, đình chỉ nghĩa vụ và hủy hợp đồng Trong trường hợp bất khả kháng hoặc lỗi của bên kia, trách nhiệm phát sinh thường được miễn Tuy nhiên, việc miễn trách nhiệm thực hiện đúng hợp đồng vẫn chưa rõ ràng, vì Điều 297 không có quy định loại trừ miễn trách nhiệm Theo Điều 296, các bên có quyền từ chối hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại nếu vượt quá thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp bất khả kháng, và miễn trách nhiệm chỉ áp dụng sau khi các bên đã đàm phán kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng.

15 theo căn cứ tại Điều 294 LTM 2005, thiệt hại đƣợc miễn là toàn bộ mà không giới hạn chỉ đối với tổn thất hàng hóa phát sinh

Bản chất miễn trách nhiệm theo Điều 237 LTM 2005 tương tự như Điều 294, nhưng áp dụng riêng cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong những trường hợp chưa được điều chỉnh bởi điều khoản chung Cần lưu ý rằng phạm vi miễn trách nhiệm giữa hai điều khoản này có sự khác biệt, với Điều 237 chỉ miễn trách nhiệm liên quan đến tổn thất hàng hóa phát sinh.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hàng hóa là một vấn đề quan trọng, được quy định rõ ràng trong các điều khoản pháp lý Theo Điều luật liên quan, bên có trách nhiệm sẽ phải chịu trách nhiệm về những tổn thất xảy ra đối với hàng hóa, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan Việc xác định trách nhiệm này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà còn tạo ra sự minh bạch trong các giao dịch thương mại.

Theo Điều 237 LTM 2005, thương nhân cung cấp dịch vụ logistics chỉ được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với tổn thất hàng hóa, không bao gồm các trách nhiệm khác phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng Nếu có các hành vi vi phạm khác, thương nhân vẫn phải chịu chế tài như thường lệ Ví dụ, trong trường hợp phát sinh trách nhiệm về phạt vi phạm, thương nhân sẽ phải thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng.

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không được miễn trách nhiệm đối với toàn bộ tổn thất phát sinh, theo quy định của pháp luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm cả tổn thất vật chất và tinh thần Thiệt hại vật chất có thể là do tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, trong khi thiệt hại tinh thần liên quan đến danh dự, nhân phẩm và uy tín Ngoài việc bồi thường cho tài sản bị mất, hủy hoại hoặc hư hỏng, còn có các khoản lợi ích bị mất và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại Tuy nhiên, thương nhân chỉ được miễn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hóa phát sinh trong quá trình thực hiện dịch vụ, và phạm vi miễn trách nhiệm chỉ áp dụng cho hàng hóa.

Theo Điều 294 của Luật này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hóa, trừ những trường hợp miễn trách nhiệm được quy định.

23 Nguyễn Văn Cừ-Trần Thị Huệ (2016), Bình luận Khoa học BLDS 2015, Nxb Công an Nhân dân, tr.556

25 Các quy định ở Điều 589, 590, 591 và 592 BLDS 2015

16 phải là toàn bộ các thiệt hại phát sinh trên thực tế Khoản 2 của điều này quy định

Thương nhân không phải chịu trách nhiệm cho việc mất lợi ích của khách hàng, cũng như sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm, nếu không phải do lỗi của họ Tuy nhiên, nếu có đủ căn cứ chứng minh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm đối với các khoản lợi ích thực tế bị mất của khách hàng Họ chỉ có thể miễn trách nhiệm này nếu chứng minh được rằng mình không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại.

Một số tác giả cho rằng thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chỉ phải chịu trách nhiệm đối với tổn thất hàng hóa mà không có trách nhiệm bồi thường cho các lợi ích trực tiếp hay những tổn thất khác Tuy nhiên, quan điểm này chưa thuyết phục, vì LTM 2005 chỉ quy định về miễn trách nhiệm hay giới hạn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hóa không có nghĩa là thương nhân không phải chịu trách nhiệm cho các thiệt hại khác Nếu thương nhân vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm vẫn phát sinh như trong các hoạt động thương mại khác.

Khách hàng chỉ có thể yêu cầu bồi thường từ thương nhân khi có chứng cứ chứng minh lỗi của thương nhân gây ra thiệt hại, bao gồm cả khoản lợi mà họ đáng lẽ được hưởng Nếu lỗi xuất phát từ khách hàng, đại diện của họ hoặc bên thứ ba, thương nhân không phải chịu trách nhiệm Quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 237 LTM 2005 về miễn trách nhiệm là độc lập nhưng không loại trừ lẫn nhau, cho phép thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được miễn trách nhiệm đối với tổn thất hàng hóa và các khoản lợi mà khách hàng đáng lẽ được hưởng.

Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có thể được miễn các trách nhiệm khác ngoài trách nhiệm bồi thường tổn thất hàng hóa và khoản lợi đáng ra được hưởng theo Điều 237 LTM 2005 Vấn đề này cần được làm rõ để xác định phạm vi trách nhiệm của họ trong hoạt động kinh doanh.

Trong bài khóa luận của Đinh Thị Thùy Linh (2019) tại Trường ĐH Luật TP.HCM, tác giả đã phân tích về miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của các thương nhân trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ logistics Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan, cũng như những thách thức mà thương nhân phải đối mặt trong quá trình hoạt động Các yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn liên quan đến quyền lợi của khách hàng và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Căn cứ miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

Theo quy định tại Điều 237 và Điều 294 LTM 2005, bên vi phạm có quyền hủy hợp đồng cung ứng dịch vụ, tuy nhiên bên bị vi phạm không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại từ thương nhân cung cấp dịch vụ logistics Điều này cho thấy sự khác biệt trong quy định về miễn trách nhiệm Mặc dù không phải bồi thường thiệt hại, nhưng thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm khác phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng Bên sử dụng dịch vụ có quyền yêu cầu thương nhân thực hiện các chế tài khác theo quy định pháp luật hoặc thỏa thuận giữa các bên.

Phạm vi miễn trách nhiệm theo Điều 294 LTM 2005 cho phép miễn áp dụng các chế tài mà không chỉ giới hạn ở việc miễn một phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại như quy định tại Điều 237 LTM 2005 Trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tương tự như các hoạt động thương mại khác, nhưng họ có nhiều cơ hội hơn để được miễn trách nhiệm mà lẽ ra phải chịu so với các thương nhân khác.

1.5 Căn cứ miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

1.5.1 Miễn trách nhiệm theo quy định chung tại Điều 294 LTM

1.5.1.1 Theo thỏa thuận giữa các bên

Pháp luật thương mại cho phép thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng thỏa thuận điều khoản miễn trách nhiệm, tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên Chủ thể hợp đồng thường hiểu rõ hơn về những nguy cơ và rủi ro tiềm ẩn trong quá trình thực hiện hợp đồng, giúp điều khoản miễn trách nhiệm trở nên rõ ràng, hợp lý và dễ hiểu Điều này không chỉ giúp thương nhân giảm thiểu hoặc thoát khỏi trách nhiệm phát sinh trong hoạt động mà còn cắt giảm chi phí liên quan đến việc ngăn ngừa và kiểm soát rủi ro.

29 Nguyễn Lan Anh, “Một số vấn đề pháp lý về điều khoản miễn trách nhiệm”, Tạp chí kinh tế đối ngoại, số

Dịch vụ logistics, mặc dù có nhiều rủi ro, nhưng mang lại lợi ích kinh tế lớn cho doanh nghiệp và xã hội, được khuyến khích phát triển thông qua 18 điều khoản Khách hàng hưởng lợi từ các thỏa thuận này, bao gồm việc giảm giá dịch vụ và khuyến mãi, trong khi các điều khoản miễn trách nhiệm giúp nâng cao chất lượng dịch vụ Điều này cho phép các thương nhân trong lĩnh vực logistics có điều kiện tốt hơn để bảo trì và nâng cấp phương tiện vận chuyển cũng như thiết bị kỹ thuật hiện đại.

Bên vi phạm chỉ được miễn trách nhiệm nếu có thỏa thuận trước thời điểm vi phạm, và thỏa thuận này không được trái với các nguyên tắc pháp luật Việt Nam Dù thời điểm đạt thỏa thuận không quan trọng, nhưng cần đảm bảo rằng thỏa thuận không ẩn chứa nguy cơ tư lợi, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên sử dụng dịch vụ Đặc biệt, trong hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics với cơ quan nhà nước, cần xác định rõ ai có thẩm quyền thỏa thuận miễn trách nhiệm và phạm vi của thỏa thuận đó Việc quy định chặt chẽ nhằm hạn chế tình trạng lợi dụng thỏa thuận để trục lợi, gây thất thoát tài sản công.

Theo Điều 151 Bộ Luật Hàng Hải 2015, để được miễn hoàn toàn trách nhiệm, người vận chuyển phải chứng minh rằng họ và những người làm công, đại lý của họ không có lỗi hoặc không cố ý gây ra tổn thất, hư hỏng hàng hóa Nếu tổn thất xảy ra do hành vi có lỗi, lỗi cố ý hoặc thiếu trách nhiệm từ bên vi phạm, thì bên đó sẽ không được hưởng quyền miễn trách nhiệm theo các điều khoản đã thỏa thuận.

Theo quy định tại Điều 294 LTM 2005, hình thức của thỏa thuận không được xác định rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc nhận diện, đặc biệt với các loại vé như vé tàu, vé xe, vé máy bay Điều khoản miễn trách nhiệm thường được quy định riêng trong văn bản khác và không được thể hiện trên vé Khách hàng khi mua vé xe có thể không nhận thức được rằng họ đã đồng ý với thỏa thuận miễn trách nhiệm, và thường chỉ biết đến sự tồn tại của thỏa thuận khi có vi phạm xảy ra Đối với các hợp đồng dịch vụ bằng văn bản, thỏa thuận miễn trách nhiệm cần được thể hiện tương đương với hợp đồng để đảm bảo tính hợp lệ Hơn nữa, thỏa thuận này phải là phần không thể tách rời của hợp đồng, do đó hình thức của nó phụ thuộc vào hình thức hợp đồng Trong thực tiễn, thỏa thuận bằng lời nói vẫn có thể được Tòa án công nhận, nhưng để đảm bảo tính xác thực, các bên nên lựa chọn hình thức văn bản cho thỏa thuận.

Trong hợp đồng, có giới hạn về phạm vi thỏa thuận miễn trách nhiệm giữa các bên Nguyên tắc pacta sunt servanda yêu cầu hợp đồng phải được thực hiện một cách tự nguyện, thiện chí và trung thực, với nỗ lực tối đa từ các bên Nếu các bên được phép tự do thỏa thuận miễn trách nhiệm cho bất kỳ hành vi vi phạm nào, điều này sẽ đi ngược lại nguyên tắc thực hiện và chịu trách nhiệm trong hợp đồng.

Sự tự do thỏa thuận trong hợp đồng chỉ hợp lý khi đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi, đặc biệt với bên yếu thế Nếu không, bên vi phạm có thể lợi dụng điều khoản này để tránh trách nhiệm, bỏ qua các tiêu chuẩn tối thiểu nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng Do đó, pháp luật không nên thừa nhận thỏa thuận miễn trách nhiệm cho hành vi thiếu trách nhiệm hoặc không tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu mà pháp luật hay quy tắc nghề nghiệp quy định.

Các hình thức có giá trị tương đương với văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác được quy định bởi pháp luật.

31 Nguyễn Lan Anh, tlđd, tr.15

Thỏa thuận miễn trách nhiệm không loại trừ nghĩa vụ khắc phục hoặc hạn chế tổn thất của bên vi phạm Bên vi phạm chỉ được miễn trách nhiệm khi chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ một cách mẫn cán nhưng vẫn gây ra thiệt hại Tòa án không chấp nhận việc lợi dụng thỏa thuận này để trốn tránh nghĩa vụ Một ví dụ thực tiễn là vụ tranh chấp giữa Nguyên đơn là chủ hàng Việt Nam và Bị đơn là công ty vận tải Singapore về điều khoản “miễn trách nhiệm” trong hợp đồng thuê tàu chở 10.000 MT gạo cho một công ty tại Angiêria.

Người vận chuyển chỉ chịu trách nhiệm về mất mát hoặc thiệt hại hàng hóa nếu do thiếu mẫn cán của chủ tàu hoặc người quản lý trong việc đảm bảo tàu đủ khả năng đi biển và trang bị đầy đủ Họ không chịu trách nhiệm cho thiệt hại phát sinh từ lỗi của thuyền trưởng, đoàn thủy thủ, hoặc những người khác mà họ thuê, cũng như không liên quan đến tình trạng không đủ khả năng đi biển của tàu trong quá trình bốc hàng hoặc khởi hành.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, tàu đã bị bắt giữ và bán để trả nợ của chủ tàu, trong khi hàng hóa trên tàu đã bị dỡ trước đó Uỷ ban trọng tài đã chấp nhận lập luận của Nguyên đơn, cho rằng Bị đơn phải chứng minh thiệt hại không phải do lỗi của họ theo Điều 2 hợp đồng Tuy nhiên, Bị đơn không cung cấp được chứng cứ liên quan, do đó không được miễn trách nhiệm theo thỏa thuận trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa.

1.5.1.2 Xảy ra sự kiện bất khả kháng

Pháp luật Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, công nhận "sự kiện bất khả kháng" là lý do để miễn trách nhiệm vi phạm hợp đồng Mặc dù không được quy định cụ thể trong Luật Thương Mại 2005, khái niệm này có thể được làm rõ thông qua Điều 156 Bộ Luật Dân Sự 2015, trong đó định nghĩa "sự kiện bất khả kháng" là những sự kiện xảy ra một cách khách quan.

32 Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) (2002), “50 Phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc”, Nxb

Chính trị quốc gia, tr 246

Khái niệm bất khả kháng trong luật Việt Nam tương tự như học thuyết frustration trong các hệ thống common law Điều này ám chỉ các tình huống không thể lường trước và không thể khắc phục, ngay cả khi đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết Trong hệ thống luật dân sự, bất khả kháng được hiểu là các sự kiện ngoài tầm kiểm soát, như force majeure, mà các bên không thể dự đoán hoặc ngăn chặn.

Hậu quả của miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với thương nhân kinh

1.6.1 Trường hợp có căn cứ theo Điều 237 LTM 2005

Thương nhân cung cấp dịch vụ logistics sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường cho tổn thất hàng hóa nếu có căn cứ phát sinh theo các điều khoản đã quy định.

Các bên không phải chịu trách nhiệm đối với lợi ích mà khách hàng đáng lẽ được hưởng do sự chậm trễ hoặc giao hàng sai địa điểm nếu không có lỗi từ họ Trong trường hợp này, khách hàng sẽ mất quyền yêu cầu bồi thường cho những tổn thất hàng hóa và lợi ích phát sinh Tuy nhiên, việc miễn trách nhiệm này không hoàn toàn, vì khách hàng vẫn có quyền áp dụng chế tài đối với những trách nhiệm còn lại Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics vẫn phải chịu trách nhiệm cho các hành vi vi phạm của mình.

1.6.2 Trường hợp có căn cứ theo Điều 294 LTM 2005

Trách nhiệm của thương nhân trong lĩnh vực dịch vụ logistics không bị ràng buộc theo điều khoản này, vượt qua quy định tại Điều 237 LTM 2005 Họ có quyền được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm và tạm ngưng thực hiện nghĩa vụ.

Vai trò của chế định miễn trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ

1.7 Vai trò của chế định miễn trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics

Hợp đồng được thiết lập để thực hiện, do đó bên vi phạm phải chịu trách nhiệm cho hành vi của mình Nguyên tắc này cho thấy chế định miễn trách nhiệm có thể không công bằng khi cho phép bên vi phạm thoát khỏi nghĩa vụ Tuy nhiên, từ một góc nhìn khác, việc miễn trách nhiệm lại giúp đảm bảo thực hiện hợp đồng và bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế.

Quy định về miễn trách nhiệm tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên là một yếu tố quan trọng trong hợp đồng Thỏa thuận này thể hiện cam kết tự nguyện, không yêu cầu bên nào phải chịu trách nhiệm khi gặp hoàn cảnh bất khả kháng Điều này không chỉ thể hiện thiện chí trong việc giao kết hợp đồng mà còn khuyến khích sự hợp tác cùng có lợi giữa các bên.

Hoạt động logistics tiềm ẩn nhiều rủi ro khách quan và khó lường Nếu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics không thực hiện nhiệm vụ này, khách hàng sẽ phải tự mình đảm nhận, dẫn đến chi phí cao hơn và vẫn phải đối mặt với những rủi ro tương tự.

Chế định miễn trách nhiệm trong hợp đồng không chỉ giảm thiểu vi phạm mà còn tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia Cả bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ đều phải nỗ lực thực hiện cam kết của mình Bên cung cấp dịch vụ cần phải cố gắng hết sức để hoàn thành hợp đồng, trong khi bên sử dụng dịch vụ cũng phải hợp tác và hỗ trợ để hạn chế tổn thất Nếu vi phạm xảy ra do lỗi của bên sử dụng, họ sẽ mất quyền áp dụng chế tài đối với bên cung cấp Hợp đồng cung ứng dịch vụ logistics là hợp đồng song vụ, nơi quyền lợi và nghĩa vụ luôn đi đôi với nhau, và sự hợp tác thiện chí của tất cả các bên là điều cần thiết để đảm bảo thực hiện hợp đồng thành công.

Miễn trách nhiệm giúp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics yên tâm hoạt động, vì họ cung cấp dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi và nhận thù lao xứng đáng với công việc thực hiện Dịch vụ logistics không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng làm tăng giá trị hàng hóa, đồng thời giúp giảm chi phí, tối ưu hóa hoạt động sản xuất Chi phí logistics chỉ chiếm một phần nhỏ trong giá thành sản phẩm và có xu hướng giảm Chế định miễn trách nhiệm giúp thương nhân duy trì hoạt động mà không lo bị khánh kiệt do phải bồi thường thiệt hại lớn so với thù lao nhận được.

Bài viết phân tích các căn cứ miễn trách nhiệm và điều kiện để thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được hưởng miễn trách nhiệm, đồng thời làm rõ sự khác biệt giữa miễn trách nhiệm do hành vi vi phạm chung và riêng cho lĩnh vực logistics Việc so sánh quy định trong LTM 2005 với pháp luật chuyên ngành giúp chỉ ra những điểm khác biệt về trường hợp miễn trách nhiệm, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này Dịch vụ logistics đa dạng và phức tạp, mặc dù pháp luật đã có những tiến bộ nhưng vẫn chưa đầy đủ để giải quyết tranh chấp phát sinh, phụ thuộc nhiều vào ý chí và cách giải thích của Tòa án Cần có nhiều án lệ bổ sung để hướng dẫn áp dụng và giải quyết tranh chấp liên quan đến miễn trách nhiệm, nhằm phát huy vai trò của chế định này Nếu cơ chế xét xử không minh bạch, thương nhân sẽ phải tìm cách hạn chế rủi ro, dẫn đến chi phí không cần thiết và không khuyến khích hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ logistics.

GIỚI HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA THƯƠNG NHÂN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
18. Dương Hữu Tuyến-Đinh Hữu Thạnh, “Mối tương quan giữa nhận diện rủi ro và giảm thiểu rủi ro tại các doanh nghiệp logistics Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Giao thông vận tải, số 67-12/2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối tương quan giữa nhận diện rủi ro và giảm thiểu rủi ro tại các doanh nghiệp logistics Việt Nam
3. Bộ luật Tố tụng dân sự (Luật số 92/2015/QH13) ngày 25/11/2015 Khác
4. Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phù ban hành ngày 31/3/2020 Khác
5. Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010 (Luật số 59/2010/Q12) ngày 17/11/2010 Khác
6. Luật giao thông đường thủy nội địa số 23/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 48/2014/QH13 ngày 17 tháng 6 năm 2014 Khác
7. Luật hàng không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 1/2014/QH13 ngày 21 tháng 11 năm 2014 Khác
9. Luật Trọng tài thương mại (Luật số 54/2010/QH12) ngày 17/6/2010 Khác
10. Nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/9/2007 quy định chi tiết Luật thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics Khác
11. Nghị định số 163/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/12/2017 quy định về kinh doanh dịch vụ Logistics Khác
12. Nghị định số 47/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/6/2011 quy định chi tiết về thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính Khác
13. Nghị định số 86/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/9/2014 về điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô Khác
14. Nghị định số 87/209/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/10/2009 về vận tải đa phương thức Khác
15. Thông tƣ số 22/2018/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ngày 02/5/2018 về vận tải hàng hóa trên đường sắt quốc gia và đường sắt chuyên dùng có nối ray với đường sắt quốc gia Khác
16. Thông tƣ số 61/2015/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải ngày 02/11/2015 quy định về vận tải hàng hóa trên đường thủy nội địa.B. Tài liệu tham khảo Khác
17. Bùi Ngọc Cường chủ biên (2008), Giáo trình Luật thương mại Tập 2, Nxb. Giáo dục Khác
19. Đinh Thị Thùy Linh (2019), Miễn trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Khác
20. Đoàn Thị Hồng Vân chủ biên (2010), Logistics Những vấn đề cơ bản, Nxb Lao động xã hội Khác
21. Đỗ Văn Đại (2019), Luật Hợp đồng-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam Khác
22. Đỗ Văn Đại (2010), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Khác
23. Khúc Thị Thùy Trang (2014), Những vấn đề về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w