1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Kết hôn có yếu tố nước ngoài thực trạng và giải pháp hoàn thiện (luận văn thạc sỹ luật)

83 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 1,54 MB

Cấu trúc

  • B7

  • BAI LAM CHINH THUC (Repaired)

  • ghichukethon SOC TRANG

  • solieudangkykethon SOC TRANG

Nội dung

Khái niệm kết hôn, các đặc điểm và ý nghĩa của kết hôn

Khái niệm kết hôn

Kết hôn, theo Tự điển Luật học 8, được định nghĩa là hành vi xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ, khi họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn và thực hiện việc đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.

Theo Điều 8, khoản 2 của Luật Hôn nhân và Gia đình, kết hôn được định nghĩa là mối quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ, được xác lập theo quy định pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn Đây là lần đầu tiên khái niệm kết hôn được ghi nhận trong Luật Hôn nhân và Gia đình.

Kết hôn là quyền cơ bản của công dân và phải được pháp luật công nhận, bảo vệ Tuy nhiên, pháp luật chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân trong quan hệ hôn nhân và gia đình khi họ tuân thủ các điều kiện mà pháp luật quy định Để thực hiện quyền kết hôn, các bên phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền Chỉ khi đó, quan hệ hôn nhân mới được công nhận là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Đặc điểm của kết hôn

Kết hôn là một hiện tượng tự nhiên và xã hội, phản ánh nhu cầu liên kết giữa nam và nữ, tương tự như các nhu cầu cơ bản khác như ăn, mặc, ở Là những thực thể xã hội, con người hình thành quan hệ vợ chồng thông qua hôn nhân, tạo ra sự kết nối giữa các cá nhân Quan hệ này không chỉ mang tính chất tự nhiên mà còn bị điều chỉnh bởi nhiều yếu tố xã hội, bao gồm pháp luật và phong tục tập quán của từng dân tộc qua các thời kỳ khác nhau.

Kết hôn là sự liên kết tự nguyện giữa hai người khác giới nhằm xây dựng cuộc sống chung và gia đình hạnh phúc Theo Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình, kết hôn được định nghĩa là việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ theo quy định pháp luật về điều kiện và đăng ký kết hôn, khẳng định rằng hôn nhân chỉ xảy ra giữa những người khác giới theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Theo Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), trong Tự điển Luật học, kết hôn được định nghĩa là sự kết hợp tự nguyện giữa hai bên, và pháp luật không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính Pháp luật cấm mọi hành vi cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, cũng như các hành vi gian dối nhằm đạt được hôn nhân hoặc yêu cầu tài sản trong quá trình cưới hỏi.

Kết hôn là một liên kết hợp pháp, yêu cầu các bên tham gia tuân thủ đầy đủ các điều kiện và trình tự do pháp luật quy định Mục đích của các điều kiện và thủ tục này không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của các bên mà còn hướng tới việc xây dựng các quan hệ hôn nhân theo định hướng của nhà nước, góp phần tạo ra gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.

Ý nghĩa của kết hôn

Kết hôn là sự kiện pháp lý tạo ra quan hệ hôn nhân, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ Khi các bên tuân thủ đầy đủ quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn, quan hệ hôn nhân hợp pháp sẽ được hình thành, và họ trở thành vợ chồng với đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo luật Pháp luật bảo vệ quan hệ hôn nhân hợp pháp, và khi quyền lợi của các bên bị xâm phạm, họ có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước can thiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Theo Điều 28 LHN&GĐ, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý tài sản chung Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia đình phải được thỏa thuận giữa hai bên Nếu một trong hai bên thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung mà không có sự đồng ý của bên còn lại, quyền lợi của họ sẽ bị xâm phạm, và bên không đồng ý có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu.

Kết hôn theo quy định của pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi của phụ nữ mà còn khẳng định tình cảm và cam kết lâu dài của nam giới đối với họ Điều này giúp phụ nữ cảm thấy an tâm hơn trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc Về mặt pháp lý, sau khi kết hôn, quyền lợi của phụ nữ được bảo vệ, bao gồm quyền định đoạt tài sản chung và hạn chế quyền ly hôn của chồng khi phụ nữ đang mang thai hoặc có con nhỏ dưới mười hai tháng tuổi.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định 9 điều quan trọng liên quan đến việc chia tài sản chung khi ly hôn, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cả hai bên Ngoài ra, luật cũng quy định các chế tài hành chính và hình sự đối với hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng của người chồng, nhằm bảo vệ sự công bằng và ổn định trong mối quan hệ hôn nhân.

Những vấn đề chung về kết hôn có yếu tố nước ngoài

Khái niệm về kết hôn có yếu tố nước ngoài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chính sách mở rộng hợp tác quốc tế, nhu cầu kết hôn có yếu tố nước ngoài đang gia tăng Kết hôn không chỉ là sự kiện tạo ra quan hệ hôn nhân trong nước mà còn liên quan đến các yếu tố quốc tế Việc nhận diện chính xác "yếu tố nước ngoài" trong quan hệ hôn nhân là rất quan trọng, bởi nhiều trường hợp không xác định đúng đã gây khó khăn cho cơ quan nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh Xác định yếu tố nước ngoài cần được xem xét từ cả góc độ tư pháp quốc tế và theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam.

Tư pháp quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm cả quan hệ hôn nhân và gia đình Việc xác định yếu tố nước ngoài là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến việc chọn hệ thống pháp luật áp dụng, xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết và công nhận, thi hành các quyết định của cơ quan nước ngoài Yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế có thể được xác định qua một trong ba yếu tố chính.

- Về chủ thể: ít nhất một trong các bên tham gia quan hệ là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài

- Về khách thể: tài sản liên quan đến quan hệ nằm ở nước ngoài

- Về sự kiện pháp lý: căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ theo pháp luật nước ngoài hoặc phát sinh tại nước ngoài

Điều 758 Phần VII Bộ luật Dân sự 2005 quy định ba yếu tố quan trọng để xác định yếu tố nước ngoài trong một quan hệ dân sự.

Trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân và gia đình, hiện chưa có văn bản quy phạm nào định nghĩa rõ ràng về kết hôn có yếu tố nước ngoài Kết hôn được xem là một sự kiện pháp lý quan trọng, tạo ra quan hệ hôn nhân và nằm trong tổng thể các mối quan hệ này Yếu tố nước ngoài trong hôn nhân được xác định dựa trên các yếu tố liên quan đến quan hệ hôn nhân Trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình được ban hành, không có văn bản nào đưa ra khái niệm cụ thể về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài Do đó, một số quan điểm cho rằng yếu tố nước ngoài chỉ bao gồm yếu tố chủ thể, như đã quy định trong Pháp lệnh hôn nhân gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.

1993, nhưng có quan điểm cho rằng yếu tố nước ngoài phải bao gồm cả ba yếu tố được quy định tại Điều 826 Bộ luật Dân sự 1995 10

Vận dụng quy định tại Điều 826 Bộ luật Dân sự 1995 cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, cùng với quy định tại Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài năm 1993, lần đầu tiên khái niệm về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được đưa ra tại khoản 14 Điều 8 Quan hệ này được định nghĩa là các mối quan hệ hôn nhân và gia đình liên quan đến ít nhất một bên là người nước ngoài.

- Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;

- Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;

Công dân Việt Nam có thể xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp lý dựa trên quy định của pháp luật nước ngoài, đặc biệt khi liên quan đến tài sản ở nước ngoài.

Theo khoản 4 Điều 100 của Luật Hôn nhân và Gia đình, các quy định trong chương này cũng áp dụng cho quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam, trong trường hợp một hoặc cả hai bên đang định cư ở nước ngoài.

Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài được định nghĩa là những người mang quốc tịch Việt Nam sống và làm việc lâu dài tại nước ngoài, bất kể họ có nhập quốc tịch nước khác hay không Trong trường hợp hai công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài kết hôn mà không có căn cứ pháp lý để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ theo luật nước ngoài, thì mối quan hệ này sẽ không được công nhận là hôn nhân có yếu tố nước ngoài Tuy nhiên, luật áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến hôn nhân này vẫn là các quy định dành cho hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo Chương XI của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Bộ luật Dân sự 2005 hiện hành đã mở rộng các căn cứ xác định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm cả quan hệ hôn nhân và gia đình Theo Điều 758, một quan hệ dân sự được coi là có yếu tố nước ngoài nếu có ít nhất một bên là người Việt Nam định cư ở nước ngoài Việc áp dụng văn bản pháp luật được quy định tại khoản 3 Điều 83 của Luật Ban hành văn bản.

10 Võ Thị Chính (2004), Kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định pháp luật hôn nhân và gia đinh Việt Nam hiện hành,

Khóa luận cử nhân, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh

11 Mục 1 phần I Thông tư 07/2002/TT-BTP

12 Khoản 14 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Theo Điều 1 Bộ luật Dân sự 2005 và quy định tại Điều 758, trong trường hợp có sự khác biệt giữa các văn bản pháp luật do cùng một cơ quan ban hành, quy định của văn bản ban hành sau sẽ được áp dụng Để xác định quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, cần xem xét không chỉ quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình mà còn cả Nghị định 138/2006/NĐ-CP Hiện nay, quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam, trong đó một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài, được coi là có yếu tố nước ngoài và sẽ áp dụng Chương XI của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cùng các nghị định liên quan Việc xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân còn bao gồm căn cứ về nơi cư trú, bên cạnh ba căn cứ chính là chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý Do đó, kết hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

 Kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài

Theo Điều 49 Hiến pháp năm 1992, công dân Việt Nam được định nghĩa là người có quốc tịch Việt Nam Các giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam bao gồm Giấy khai sinh, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu Việt Nam, Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam và Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam, theo quy định tại Điều 11 Luật Quốc tịch 2008.

Người nước ngoài được định nghĩa là những cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam, bao gồm cả những người có quốc tịch nước ngoài và những người không có quốc tịch Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch của một quốc gia khác không phải là Việt Nam, trong khi đó, người không có quốc tịch là những người không có quốc tịch Việt Nam lẫn quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào khác.

Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài được công nhận tự động khi diễn ra trước cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam Tuy nhiên, nếu hôn nhân được tiến hành tại nước ngoài, cần thực hiện thủ tục công nhận tại Việt Nam theo Điều 20 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, đã được sửa đổi bởi Nghị định 69/2006/NĐ-CP Thủ tục công nhận này đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các kết hôn có yếu tố nước ngoài.

14 Khoản 1 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008

Theo Khoản 2 Điều 3 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sau khi quan hệ hôn nhân được công nhận chính thức, nhà nước Việt Nam sẽ bảo hộ mối quan hệ này Điều này đảm bảo rằng các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài cũng được bảo vệ tương tự như các quan hệ hôn nhân trong nước.

 Kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam, trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam

Quan hệ hôn nhân giữa người nước ngoài tại Việt Nam ngày càng gia tăng, đòi hỏi pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam cần điều chỉnh để phù hợp với thực tế Khi giải quyết các vụ kết hôn giữa người nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam để xử lý.

Đặc trưng của pháp luật điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước ngoài

Pháp luật hôn nhân và gia đình của mỗi quốc gia được hình thành dựa trên truyền thống dân tộc, phong tục tập quán, và các quan niệm đạo đức, tôn giáo Do đó, pháp luật hôn nhân và gia đình giữa các quốc gia không thể giống nhau Mặc dù có sự khác biệt trong quy định, nhưng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài và việc kết hôn quốc tế vẫn có một số đặc trưng chung.

 Đối tượng điều chỉnh là việc kết hôn có yếu tố nước ngoài

Yếu tố nước ngoài trong hôn nhân làm cho việc điều chỉnh kết hôn trở nên khác biệt so với hôn nhân không có yếu tố nước ngoài Các quốc gia có quan điểm khác nhau về “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ dân sự và hôn nhân Để xác định yếu tố nước ngoài, thường dựa vào ba dấu hiệu: thứ nhất, chủ thể có ít nhất một bên là cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài; thứ hai, khách thể khi tài sản liên quan đang ở nước ngoài; thứ ba, sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài Pháp luật Việt Nam cũng áp dụng ba căn cứ này cùng với căn cứ thứ tư là nơi cư trú để xác định yếu tố nước ngoài.

Việc xác định sự tồn tại của yếu tố nước ngoài trong hôn nhân có ý nghĩa quan trọng, vì nếu không có yếu tố này, pháp luật áp dụng chỉ là pháp luật trong nước Ngược lại, khi có yếu tố nước ngoài, cần xác định hệ thống pháp luật nào sẽ điều chỉnh hôn nhân, cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan, và cách thức công nhận hôn nhân nếu được tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

Trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, sự bình đẳng giữa các quốc gia dẫn đến việc có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau tham gia điều chỉnh Đặc điểm của hôn nhân quốc tế thường liên quan đến hai hoặc nhiều quốc gia, do đó, việc chọn lựa một hệ thống pháp luật cụ thể là cần thiết để giải quyết các vấn đề phát sinh Pháp luật điều chỉnh quan hệ này chủ yếu áp dụng hai phương pháp: phương pháp xung đột và phương pháp thực chất.

Phương pháp xung đột sử dụng quy phạm xung đột để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài Quy phạm xung đột không quy định trực tiếp cách điều chỉnh mà chỉ xác định pháp luật của nước nào sẽ được áp dụng Đây là loại quy phạm pháp luật “dẫn chiếu”, giúp các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

Theo Điều 103 LHN&GĐ, khi kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên cần tuân thủ pháp luật của quốc gia mình về điều kiện kết hôn Nếu hôn lễ diễn ra tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam, người nước ngoài cũng phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.

Quy phạm xung đột được chia thành hai loại: quy phạm xung đột trong nước và quy phạm xung đột thống nhất trong các điều ước quốc tế Khác với quy phạm pháp luật thông thường, quy phạm xung đột không có ba phần: giả định, quy định, chế tài, mà bao gồm phần phạm vi và phần hệ thuộc Phần phạm vi xác định quan hệ mà quy phạm điều chỉnh, trong khi phần hệ thuộc nêu rõ quy tắc chọn luật cho các quan hệ trong phạm vi đó Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, phần hệ thuộc thường sử dụng các hệ thuộc như Luật nhân thân (bao gồm Luật quốc tịch và Luật nơi cư trú) để xác định điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, cũng như hệ thuộc Luật nơi tiến hành kết hôn để xác định nghi thức kết hôn.

Phương pháp thực chất là phương pháp sử dụng các quy phạm pháp luật rõ ràng, quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp lý Phương pháp này giúp giải quyết vấn đề cần điều chỉnh mà không cần phải qua bước chọn luật áp dụng Ví dụ, khoản 2 Điều 100 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân.

Trong tác phẩm của Nguyễn Hồng Bắc và Nông Quốc Bình (2006), "Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế", được xuất bản bởi NXB Tư Pháp tại Hà Nội, trang 66, tác giả nhấn mạnh rằng hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Việt Nam đều được hưởng quyền và nghĩa vụ tương tự như công dân Việt Nam, trừ khi pháp luật có quy định khác Theo quan điểm phổ biến, quy phạm thực chất có thể được phân loại thành hai loại: quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế và quy phạm thực chất trong nước.

Các nguyên tắc điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam

Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh hôn nhân có yếu tố nước ngoài bao gồm các nguyên lý và tư tưởng chỉ đạo các quy định pháp luật liên quan Tại Việt Nam, việc điều chỉnh hôn nhân có yếu tố nước ngoài tuân theo một số nguyên tắc cơ bản, đảm bảo tính hợp pháp và quyền lợi của các bên liên quan.

 Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng

Hôn nhân tự nguyện được xây dựng trên nền tảng tình yêu chân chính, trong đó cả hai bên nam nữ có quyền tự quyết định mà không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài.

Tự nguyện còn được xem là một điều kiện kết hôn mà các bên phải tuân thủ Nhà nước

“cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, …” 21

Hôn nhân một vợ một chồng được xây dựng trên nền tảng tự nguyện, tiến bộ và bình đẳng giữa nam và nữ, nhằm xóa bỏ chế độ nhiều vợ trong hôn nhân phong kiến, nơi phụ nữ thường bị coi rẻ và chịu nhiều đau khổ Chế độ này không chỉ bảo vệ quyền lợi của phụ nữ mà còn đảm bảo tình yêu giữa các cặp đôi bền vững, từ đó duy trì và củng cố hạnh phúc gia đình.

Vợ chồng bình đẳng là nguyên tắc dựa trên quyền nam nữ bình đẳng theo Hiến pháp, cụ thể tại điều 63, khẳng định rằng "Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình." Nguyên tắc này thể hiện rõ trong gia đình, nơi vợ chồng có nghĩa vụ và quyền hạn ngang nhau, hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau phát triển toàn diện, cùng chia sẻ tài sản chung và giáo dục con cái một cách bình đẳng.

 Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong việc xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh việc kết hôn có yêu tố nước ngoài

Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị và pháp lý không thể tách rời, thể hiện qua hai phương diện chính là đối nội và đối ngoại.

21 Điều 4 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Theo Ngô Hữu Phước (2010), trong lĩnh vực đối nội, mỗi quốc gia có quyền tự quyết và thực hiện ba chức năng cơ bản là lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không bị can thiệp từ bên ngoài Điều này bao gồm quyền ban hành pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài Công dân của một quốc gia sẽ chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật quốc gia đó, bất kể họ đang sinh sống ở đâu Nguyên tắc này khẳng định rằng không có quốc gia nào có quyền ban hành pháp luật để điều chỉnh quan hệ của công dân mang quốc tịch nước ngoài đang sống tại nước khác Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, do đặc thù liên quan đến nhiều quốc gia, sẽ có nhiều hệ thống pháp luật tương ứng áp dụng.

Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia được thể hiện qua việc áp dụng hệ thuộc Luật nhân thân để điều chỉnh hôn nhân Để một quan hệ hôn nhân được coi là hợp pháp, các bên tham gia phải tuân thủ quy định pháp luật về điều kiện kết hôn Đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài, ít nhất hai hệ thống pháp luật của các bên quốc tịch sẽ tham gia điều chỉnh Việc lựa chọn hệ thống pháp luật được thực hiện thông qua phương pháp xung đột hoặc thực chất, trong đó cá nhân phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia mà họ mang quốc tịch Điều này thể hiện sự tôn trọng chủ quyền quốc gia, vì công dân muốn kết hôn phải tuân theo pháp luật nước của họ Trong tư pháp quốc tế, việc xác định pháp luật điều chỉnh điều kiện kết hôn thường dựa trên hệ thuộc Luật quốc tịch Theo pháp luật Việt Nam, trong hôn nhân giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của quốc gia mình về điều kiện kết hôn, và nếu kết hôn tại Việt Nam, người nước ngoài cũng phải tuân theo các quy định của Luật này.

Chủ quyền quốc gia trong việc công nhận quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được thể hiện qua việc xác định nghi thức kết hôn mà các bên phải tuân thủ Mỗi quốc gia quy định các nghi thức kết hôn khác nhau, do đó, khi tiến hành hôn nhân có yếu tố nước ngoài, các bên phải tuân theo nghi thức được xác định theo luật nơi diễn ra hôn lễ Điều này được quy định rõ trong Điều 11 Nghị định 68/2002/NĐ.

Để đảm bảo tính hợp pháp, việc kết hôn tại Việt Nam phải được thực hiện trước cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam; mọi hình thức kết hôn khác sẽ không được công nhận.

Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam tôn trọng chủ quyền quốc gia khác, đồng thời khẳng định chủ quyền của mình trong việc quy định kết hôn Theo đó, việc kết hôn phải được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, và các bên nước ngoài phải tuân thủ các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam Điều này thể hiện qua hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc áp dụng các điều kiện kết hôn, điều chỉnh hành vi kết hôn của người nước ngoài tại Việt Nam.

Nguyên tắc điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài cần tuân thủ các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

Pháp luật các quốc gia đều quy định cách giải quyết xung đột trong lĩnh vực hôn nhân, dựa trên các yếu tố như quốc tịch, nơi cư trú và địa điểm kết hôn để xác định luật áp dụng Hệ thống pháp luật chỉ được áp dụng khi có quy định trong pháp luật quốc gia hoặc điều ước quốc tế liên quan cho phép.

Khoản 1 Điều 100 LHN&GĐ đã ghi nhận nguyên tắc này: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”

Theo nguyên tắc, hệ thống pháp luật Việt Nam được ưu tiên áp dụng để giải quyết các vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền Tuy nhiên, nếu có sự điều chỉnh đồng thời giữa pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, điều ước quốc tế sẽ được áp dụng Cụ thể, Khoản 2 Điều 7 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định rằng trong trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác với luật trong nước, quy định của điều ước quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng.

2 Điều 7 của LHN&GĐ, việc bảo vệ quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam được thể hiện qua một số nội dung sau:

23 Nông Quốc Bình (2002), “Các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh pháp luật hôn nhân và gia đinh có yếu tố nước ngoài”, Luật

Khi bảo vệ quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập sẽ được ưu tiên áp dụng.

KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐINH VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Điều kiện kết hôn

Điều kiện kết hôn là những yêu cầu pháp lý mà các bên nam nữ phải tuân thủ khi kết hôn Nếu quan hệ vợ chồng được đăng ký nhưng vi phạm điều kiện kết hôn, sẽ được coi là kết hôn trái pháp luật Tòa án có thẩm quyền sẽ xem xét và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật khi có yêu cầu Đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài, mỗi bên cần tuân theo pháp luật của quốc gia mình và nếu kết hôn tại Việt Nam, người nước ngoài cũng phải tuân thủ quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Các điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình bao gồm độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện và các trường hợp cấm kết hôn.

2.1.1 Điều kiện về độ tuổi kết hôn

Tuổi kết hôn được coi là điều kiện tiên quyết cho việc kết hôn, với quy định dựa trên nghiên cứu về sự phát triển thể chất và tâm lý của người Việt Nam Khi đạt đến độ tuổi nhất định, chức năng sinh sản sẽ phát triển hoàn chỉnh, đảm bảo sức khỏe cho con cái và người mẹ trong thai kỳ Đồng thời, nam nữ ở độ tuổi này cũng có sự phát triển tâm lý, giúp họ có những suy nghĩ nghiêm túc về hôn nhân Quy định về độ tuổi kết hôn không chỉ bảo vệ sức khỏe của các bên mà còn bảo vệ sự bền vững và hạnh phúc của gia đình, vì một gia đình không thể hạnh phúc khi các thành viên chưa phát triển đầy đủ về thể lực và trí lực.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, độ tuổi kết hôn được xác định là nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cách xác định độ tuổi kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Theo quy định, nam từ hai mươi tuổi trở lên và nữ từ mười tám tuổi trở lên không bắt buộc phải đủ tuổi để kết hôn, mà chỉ cần nam đã qua sinh nhật lần thứ mười chín và nữ đã qua sinh nhật lần thứ mười bảy Điều này có nghĩa là, nếu nam đã bước sang tuổi hai mươi và nữ đã bước sang tuổi mười tám, họ hoàn toàn có quyền kết hôn mà không vi phạm điều kiện về độ tuổi.

Trừ khi có quy định khác trong Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết, việc tuân thủ độ tuổi kết hôn là bắt buộc đối với cả công dân Việt Nam và người nước ngoài khi kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam Do đó, người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam hoặc giữa hai người nước ngoài tại Việt Nam không chỉ phải tuân thủ quy định về độ tuổi kết hôn của quốc gia họ mà còn phải tuân theo khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

2.1.2 Điều kiện về sự tự nguyện

Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam là hôn nhân phải tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng và vợ chồng bình đẳng Sự tự nguyện trong hôn nhân chỉ tồn tại khi có sự thống nhất giữa ý chí của các bên, không bên nào bị ép buộc hay lừa dối Hôn nhân tự nguyện là sự quyết định tự do của nam nữ, không ai được cản trở hay yêu cầu về tài sản trong việc cưới hỏi Mối quan hệ hôn nhân bền vững và chức năng gia đình được thực hiện tốt khi tình yêu chân chính là nền tảng cho sự gắn kết giữa nam và nữ.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nghiên cứu của Nguyễn Hồng Bắc và Nông Quốc Bình (2006) về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đã chỉ ra những thay đổi đáng kể trong cấu trúc và quy định pháp lý Tác phẩm này, xuất bản bởi NXB Tư Pháp tại Hà Nội, cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội mà các gia đình có yếu tố nước ngoài phải đối mặt trong môi trường pháp lý và văn hóa hiện nay.

26 Khoản 1 Điều 2 Luật hôn nhân gia đình năm 2000

Quyền kết hôn là quyền nhân thân không thể chuyển nhượng, theo Điều 24 Bộ luật Dân sự 2005 Kết hôn được xác định là sự thiết lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ theo quy định pháp luật, và phải do chính hai bên thực hiện mà không được ủy quyền cho người khác Yếu tố tự nguyện trong kết hôn là vấn đề phức tạp, vì nó chỉ được xác định qua hành vi thể hiện ý chí trước cán bộ có thẩm quyền Đối với kết hôn có yếu tố nước ngoài, cả hai bên phải có mặt khi nộp hồ sơ đăng ký, trừ trường hợp có lý do chính đáng và cần có đơn xin vắng mặt Việc ủy quyền chỉ áp dụng khi nộp hồ sơ, không chấp nhận nộp qua người thứ ba, và khi tổ chức lễ đăng ký kết hôn, cả hai bên phải có mặt để thực hiện quyền của mình.

Kết hôn mà không có sự tự nguyện của nam nữ sẽ bị từ chối Nếu phát hiện không có sự tự nguyện sau khi đã đăng ký kết hôn, cá nhân hoặc tổ chức có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ cuộc hôn nhân trái pháp luật theo quy định hiện hành.

2.1.3 Các trường hợp cấm kết hôn

Khi kết hôn, nam nữ cần tuân thủ các điều kiện về độ tuổi và sự tự nguyện, đồng thời tránh các trường hợp cấm kết hôn Nếu cả hai thỏa mãn các điều kiện khác nhưng thuộc vào trường hợp cấm, hôn nhân sẽ không được thực hiện Theo Điều 10 của Luật Hôn nhân và Gia đình, có những trường hợp cụ thể cấm kết hôn mà mọi người cần lưu ý.

 Người đang có vợ hoặc có chồng

Chế độ hôn nhân và gia đình tại Việt Nam được thiết lập dựa trên nguyên tắc một vợ một chồng, điều này đảm bảo sự bền vững và hạnh phúc cho gia đình Bởi vì tình yêu giữa nam và nữ không thể chia sẻ, hôn nhân một vợ một chồng là yếu tố quan trọng để xây dựng mối quan hệ vững chắc và lâu dài.

27 Quyền kết hôn được quy định tại Điều 39 thuộc chế định quyền nhân thân của Bộ luật Dân sự 2005

28 Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

29 Khoản 1 Điều 14 và khoản 2 Điều 17 Nghị định 68/2002/NĐ-CP

Theo Khoản 1 Điều 18 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, người đang có vợ hoặc chồng không được phép kết hôn với người khác Điều này được làm rõ trong điểm C1 mục 1 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP, trong đó giải thích rằng người đang có vợ hoặc chồng không đủ điều kiện để tiến hành hôn nhân mới.

“Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn;

Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn;

Người sống chung như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và hiện tại vẫn đang chung sống với nhau, có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn, sẽ được áp dụng theo Nghị quyết này từ ngày có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003.

 Người mất năng lực hành vi dân sự

Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự 2005, nếu một người không thể nhận thức hoặc làm chủ hành vi của mình do bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, thì theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan, tòa án có thể ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự dựa trên kết luận của tổ chức giám định.

Pháp luật hôn nhân và gia đình cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn vì họ không thể thể hiện ý chí và sự tự nguyện trong việc này Thiếu năng lực hành vi dân sự đồng nghĩa với việc họ không thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân, dẫn đến việc hôn nhân không đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng Hơn nữa, những người này không có khả năng nhận thức và quản lý cuộc sống, khiến họ không thể chia sẻ và gánh vác trách nhiệm trong gia đình Y học cũng chỉ ra rằng cha mẹ mắc bệnh tâm thần có thể sinh ra trẻ em khuyết tật, do đó, pháp luật cần bảo vệ gia đình và xã hội bằng cách cấm kết hôn đối với những người mắc bệnh nhất định Cơ sở pháp lý để xác định mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005.

Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

Quan hệ hôn nhân hợp pháp chỉ phát sinh khi các bên tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Hành vi kết hôn cần được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được pháp luật công nhận Mỗi quốc gia có những nghi thức kết hôn khác nhau, phụ thuộc vào truyền thống, phong tục tập quán, và quan niệm đạo đức, tôn giáo, bao gồm cả kết hôn tôn giáo và kết hôn dân sự.

Trong việc xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài, Luật nơi tiến hành kết hôn được áp dụng, thể hiện nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia Theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, việc kết hôn có yếu tố nước ngoài phải được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền và theo nghi thức dân sự; mọi hình thức kết hôn khác không có giá trị pháp lý Nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền là rất quan trọng, giúp Nhà nước kiểm soát việc tuân thủ pháp luật trong hôn nhân và loại trừ các trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn Đăng ký kết hôn cũng bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho cả hai bên, với giấy chứng nhận kết hôn là bằng chứng xác nhận mối quan hệ vợ chồng, được Nhà nước bảo hộ.

2.2.1 Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

Theo nguyên tắc, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú của một trong các bên kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ thực hiện việc giải quyết đăng ký kết hôn, thay vì giao thẩm quyền này cho Ủy ban nhân dân cấp xã.

34 Xem Điều 11 Nghị định 68/2002/NĐ-CP

Theo Điều 102 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam và hướng dẫn tại Điều 12 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được quy định rõ ràng Việc này nhằm đảm bảo tính hợp pháp và quyền lợi cho các bên liên quan trong quá trình kết hôn.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi công dân Việt Nam có đăng ký thường trú sẽ thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi công dân Việt Nam tạm trú có thời hạn sẽ thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài Điều này áp dụng trong trường hợp công dân Việt Nam chưa có hộ khẩu thường trú nhưng đã có tạm trú theo quy định của pháp luật về hộ khẩu.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi một trong hai bên đương sự người nước ngoài cư trú sẽ thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa hai người nước ngoài đang thường trú tại Việt Nam.

Với sự gia tăng số lượng công dân Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài, việc bảo đảm quyền công dân của họ ngày càng trở nên cần thiết.

Theo quy định tại Điều 102 LHN&GĐ, Cơ quan Ngoại giao và Cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài Cụ thể, các cơ quan này thực hiện đăng ký kết hôn theo Luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Điều 12 Nghị định 68/2002/NĐ-CP cũng nêu rõ rằng Cơ quan Ngoại giao và Lãnh sự Việt Nam tại nơi cư trú của công dân Việt Nam sẽ thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại quốc gia đó.

Cơ quan Ngoại giao và lãnh sự Việt Nam tại nước tiếp nhận chỉ được thực hiện đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài khi tôn trọng chủ quyền của quốc gia sở tại và đảm bảo rằng việc đăng ký này không vi phạm pháp luật của nước đó.

2.2.2 Trình tự thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

 Hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài

Hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài gồm những giấy tờ sau:

- Tờ khai đăng ký kết hôn có dán ảnh (theo mẫu quy định);

36 Khoản 2 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của mỗi bên, do cơ quan có thẩm quyền của quốc gia nơi công dân xin kết hôn cấp, phải được cấp trong vòng 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ Giấy này xác nhận rằng đương sự hiện tại không có vợ hoặc chồng.

Giấy xác nhận từ tổ chức y tế chuyên khoa về tâm thần tại Việt Nam, từ cấp tỉnh trở lên, hoặc từ tổ chức y tế chuyên khoa nước ngoài nơi người đó cư trú trong vòng 06 tháng, là yêu cầu cần thiết Giấy xác nhận này khẳng định rằng người đó hiện không mắc bệnh tâm thần hoặc không có bệnh lý nào ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình.

Để thực hiện các thủ tục cần thiết, công dân Việt Nam trong nước cần cung cấp bản sao có công chứng hoặc chứng thực giấy chứng minh nhân dân Đối với người nước ngoài và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, cần xuất trình hộ chiếu hoặc các giấy tờ thay thế như giấy thông hành hoặc thẻ cư trú.

Đối với công dân Việt Nam trong nước, cần cung cấp bản sao có công chứng hoặc chứng thực sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể, hoặc giấy xác nhận đăng ký tạm trú có thời hạn Đối với người nước ngoài tại Việt Nam, yêu cầu là thẻ thường trú, thẻ tạm trú, hoặc giấy xác nhận tạm trú.

Kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

Quan hệ giữa Việt Nam và các nước đang ngày càng phát triển, dẫn đến sự gia tăng các trào lưu dân sự và thương mại có yếu tố nước ngoài Sự phức tạp trong các quan hệ hôn nhân và gia đình tại khu vực biên giới đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời của pháp luật Trước đây, Pháp lệnh hôn nhân gia đình năm 1993 và Nghị định số 184/1994/NĐ-CP quy định thẩm quyền đăng ký hôn nhân và gia đình thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nhưng không có quy định riêng cho khu vực biên giới Vị trí địa lý xa xôi và điều kiện đi lại khó khăn đã khiến việc thực hiện thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam và công dân nước láng giềng trở nên phức tạp Do đó, nhiều cặp đôi chọn sống chung mà không đăng ký kết hôn, dẫn đến việc quan hệ hôn nhân không được pháp luật công nhận, ảnh hưởng đến quyền lợi của họ Để giải quyết tình trạng này, cần có những chính sách và quy định phù hợp hơn.

CP quy định cụ thể về quan hệ hôn nhân và gia đình tại khu vực biên giới, đồng thời giao quyền giải quyết cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú giáp biên giới.

Điều 17 và Điều 19 của Nghị định 68/2002/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Nghị định 69/2006/NĐ-CP, quy định thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp xã, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam trong việc đăng ký kết hôn với công dân nước láng giềng Việc này không chỉ phù hợp với thực tế mà còn nâng cao tính khả thi của pháp luật.

2.3.1 Điều kiện để được áp dụng quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới

Theo Điều 65 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới và công dân nước láng giềng cũng thường trú ở khu vực biên giới phải tuân thủ quy định tại Chương V của nghị định này Nếu Chương V không có quy định cụ thể, các quy định khác trong Nghị định 68/2002/NĐ-CP sẽ được áp dụng để giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại khu vực biên giới Do đó, việc kết hôn tại khu vực biên giới cần đáp ứng các điều kiện theo quy định.

- Là việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và công dân nước láng giềng

Công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới cần có giấy chứng minh nhân dân biên giới Khu vực biên giới bao gồm các xã, phường, thị trấn có địa giới hành chính giáp ranh với đường biên giới quốc gia trên đất liền Danh sách cụ thể các xã, phường, thị trấn thuộc khu vực biên giới đất liền được quy định tại Phụ lục của Thông tư 179/2001/TT-BQP, ngày 22 tháng 01 năm 2001, hướng dẫn thực hiện Nghị định 34/2000/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ về Quy chế khu vực biên giới đất liền.

Công dân của các nước láng giềng phải có thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam Khu vực biên giới này bao gồm các đơn vị hành chính của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia, tương đương với xã, phường, thị trấn của Việt Nam, và có địa giới hành chính tiếp giáp với đường biên giới quốc gia trên đất liền với Việt Nam.

Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và công dân nước láng giềng sẽ không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Chương V Nghị định 68/2002/NĐ-CP nếu một hoặc cả hai bên không thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam.

Theo Điều 9 Nghị định 68/2002/NĐ-CP và khoản 1 Điều 2 Nghị định số 34/2000/NĐ-CP, Chính phủ quy định về Quy chế khu vực biên giới đất liền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoản 6 Điều 9 Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định rằng hợp kết hôn phải được đăng ký theo đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục giống như kết hôn có yếu tố nước ngoài thông thường.

Kết hôn tại khu vực biên giới phải tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, cùng với các văn bản hướng dẫn về điều kiện kết hôn tương tự như kết hôn có yếu tố nước ngoài.

Kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới chủ yếu diễn ra giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài Các quy định riêng về đăng ký kết hôn trong khu vực này được thiết lập để phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, nhằm tạo thuận lợi cho việc xác lập quan hệ hôn nhân Tuy nhiên, các điều kiện kết hôn vẫn phải tuân theo các quy định chung về hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

2.3.2 Quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về đăng ký kết hôn ở khu vực biên giới

 Thẩm quyền đăng ký kết hôn

Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi công dân Việt Nam cư trú tại khu vực biên giới có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký kết hôn Khi nộp hồ sơ, các bên cần thanh toán lệ phí đăng ký kết hôn tương đương với mức thu lệ phí đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam trong nước.

 Hồ sơ đăng ký kết hôn

- Công dân Việt Nam nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định;

Công dân nước láng giềng cần nộp Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định, kèm theo xác nhận tình trạng hôn nhân chưa quá 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ Xác nhận này phải chứng minh rằng đương sự hiện tại không có vợ hoặc chồng.

Các bên đương sự cần chuẩn bị 02 bộ hồ sơ và nộp tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới Đồng thời, khi nộp hồ sơ, các bên cũng phải xuất trình các giấy tờ liên quan.

Công dân Việt Nam khi qua biên giới cần xuất trình giấy chứng minh nhân dân biên giới Nếu không có giấy chứng minh này, họ phải cung cấp các giấy tờ hợp lệ khác.

THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:17

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
16. Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), Tự điển Luật học, NXB Tự điển Bách khoa – NXB Tư Pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự điển Luật học
Tác giả: Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học pháp lý
Nhà XB: NXB Tự điển Bách khoa – NXB Tư Pháp
Năm: 2006
17. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình
Tác giả: Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2009
18. Đại học Luật Tp. HCM (2008), Tập bài giảng Luật Hôn nhân và gia đình, Khoa Luật Dân sự, Tp. HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập bài giảng Luật Hôn nhân và gia đình
Tác giả: Đại học Luật Tp. HCM
Năm: 2008
19. Nguyễn Hồng Bắc và Nông Quốc Bình (2006), Quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, NXB Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Tác giả: Nguyễn Hồng Bắc và Nông Quốc Bình
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2006
20. Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa (2000), Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay
Tác giả: Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2000
21. Ngô Hữu Phước (2010), Luật quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 136  Tạp chí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật quốc tế
Tác giả: Ngô Hữu Phước
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2010
22. Bùi Thị Mừng (2006), “Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nhìn từ góc độ bình đẳng giới”, Luật học, (03) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ nhìn từ góc độ bình đẳng giới”, "Luật học
Tác giả: Bùi Thị Mừng
Năm: 2006
23. Hoàng Lan (2006), “Công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam đã đăng ký ở nước ngoài”, Dân chủ và Pháp luật, (6/2006) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam đã đăng ký ở nước ngoài”, "Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: Hoàng Lan
Năm: 2006
24. Ngô Văn Thìn (2009), “Một số vướng mắc liên quan đến việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài”, Dân chủ và Pháp luật, (7/2009) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vướng mắc liên quan đến việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài”, "Dân chủ và Pháp luật
Tác giả: Ngô Văn Thìn
Năm: 2009
25. Nguyễn Thái Mai (2005), “Trung tâm hỗ trợ kết hôn – mô hình góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài”, Luật học – Tập san về Bình đẳng giới năm 2005, tr. 30-34 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trung tâm hỗ trợ kết hôn – mô hình góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài”
Tác giả: Nguyễn Thái Mai
Năm: 2005
6. Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27 tháng 12 năm 2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch Khác
7. Nghị định 111/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 12 năm 2011 về chứng nhận lãnh sự, hợp thức hóa lãnh sự Khác
8. Nghị định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Khác
9. Nghị định số 138/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 11 năm 2006 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Khác
10. Nghị định số 69/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 21 tháng 7 năm 2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Khác
11. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Khác
12. Thông tư 01/2012/TT-BNG của Bộ Ngoại giao ngày 20 tháng 3 năm 2012 hướng dẫn thi hành Nghị định 111/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 12 năm 2011 về chứng nhận lãnh sự, hợp thức hóa lãnh sự Khác
13. Thông tư 07/2002/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16 tháng 12 năm 2002 về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài Khác
14. Thông tư số 179/2001/TT-BQP của Bộ Quốc phòng ngày 22 tháng 01 năm 2001 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 34/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 8 năm 2000 về Quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn bản tham khảo Khác
15. Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Dự thảo ngày 17 tháng 10 năm 2011). Giáo trình, sách Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w