1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bỏ phiếu tín nhiệm tại quốc hội lý luận, thực trạng và giải pháp hoàn thiện (luận văn thạc sỹ luật)

82 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bỏ Phiếu Tín Nhiệm Tại Quốc Hội. Lý Luận, Thực Trạng Và Giải Pháp Hoàn Thiện
Tác giả Lê Văn Nam
Người hướng dẫn Th.S Phan Nguyễn Phương Thảo
Trường học Trường Đại Học Luật TP.HCM
Chuyên ngành Luật Hành Chính
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2016
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 82
Dung lượng 2,6 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài (8)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài (8)
  • 4. Tình hình nghiên cứu của đề tài (8)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài (9)
  • 6. Bố cục của đề tài (9)
  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM TẠI QUỐC HỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của bỏ phiếu tín nhiệm (11)
    • 1.1.1. Khái niệm bỏ phiếu tín nhiệm (11)
    • 1.1.2. Đặc điểm của bỏ phiếu tín nhiệm (14)
      • 1.1.2.1. Bỏ phiếu tín nhiệm phương thức quy kết trách nhiệm chính trị (14)
      • 1.1.2.2. Bỏ phiếu tín nhiệm là công cụ giám sát hiệu quả (0)
      • 1.1.2.3. Bỏ phiếu tín nhiệm có thể gây nên khủng hoảng chính trị (19)
    • 1.1.3. Mục đích của bỏ phiếu tín nhiệm (20)
    • 1.1.4. Ý nghĩa của bỏ phiếu tín nhiệm (22)
    • 1.2. Phân biệt bỏ phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm và lấy phiếu tín nhiệm (23)
      • 1.2.1. Phân biệt bỏ phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu bất tín nhiệm theo quan niệm của các nước trên thế giới (23)
      • 1.2.2. Phân biệt bỏ phiếu tín nhiệm với lấy phiếu tín nhiệm theo quy định pháp luật Việt (24)
    • 1.3. Bỏ phiếu tín nhiệm tại một số quốc gia trên thế giới (27)
      • 1.3.1. Bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện Anh (27)
      • 1.3.2. Bỏ phiếu tín nhiệm tại Đuma quốc gia Nga (29)
      • 1.3.3. Bỏ phiếu tín nhiệm tại Cộng hòa liên bang Đức (31)
      • 1.3.4. Bỏ phiếu tín nhiệm tại Cộng hòa Pháp (32)
      • 1.3.5. Bỏ phiếu tín nhiệm tại Thụy Điển (34)
    • 1.4. Bỏ phiếu tín nhiệm theo các bản Hiến pháp và pháp luật Việt Nam (35)
      • 1.4.1. Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1946 (35)
      • 1.4.2. Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 (36)
      • 1.4.3. Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1992 và Nghị quyết 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 (37)
      • 1.4.4. Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 2013 và quy định pháp luật hiện hành (37)
      • 1.4.5. So sánh bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 (38)
        • 1.4.5.1. Điểm giống nhau (38)
        • 1.4.5.2. Điểm khác nhau (38)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM TẠI QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 2.1. Quy định pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam (42)
    • 2.1.1. Các trường hợp và đối tượng bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội (42)
      • 2.1.1.1. Các trường hợp bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội (42)
      • 2.1.1.2. Đối tượng bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội (45)
    • 2.1.2. Nguyên tắc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội (46)
    • 2.1.3. Trình tự, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội (47)
      • 2.1.3.1. Thủ tục đề nghị, kiến nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm (47)
      • 2.1.3.2. Quy trình bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (48)
    • 2.1.4. Hệ quả pháp lý của bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội (51)
    • 2.2. Thực trạng bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam (52)
      • 2.2.1. Những bất cập của quy định pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm (52)
      • 2.2.2. Thực tiễn bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam hiện nay (59)
      • 2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng (65)
    • 2.3. Một số giải pháp hoàn thiện bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam (66)
  • KẾT LUẬN (75)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu, đặc biệt là nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội Quốc hội cần trở thành cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực tối cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Là cơ quan duy nhất có quyền giám sát tối cao hoạt động nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền giám sát này thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm, một phương thức quan trọng được bổ sung vào Hiến pháp năm 1992 theo Nghị quyết số 51/2001/QH10.

Chế định bỏ phiếu tín nhiệm, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và tiếp tục trong Hiến pháp năm 2013, đã giúp Quốc hội chủ động xử lý các chức danh có hành vi sai phạm, từ đó tăng cường trách nhiệm chính trị và hiệu quả làm việc Tuy nhiên, sau hơn 15 năm, Quốc hội vẫn chưa thực hiện quyền hiến định này, dẫn đến tình trạng nhiều cá nhân giữ chức vụ vi phạm nhưng không bị bỏ phiếu tín nhiệm Điều này đã gây ra sự không hài lòng trong các đại biểu và khiến những người giữ chức vụ hoạt động với tâm lý cầm chừng, không đạt được kỳ vọng của Quốc hội.

Quốc hội vẫn chưa thực hiện quyền bỏ phiếu tín nhiệm, đặt ra câu hỏi về nguyên nhân của tình trạng này Với lý do đó, tác giả quyết định nghiên cứu đề tài “Bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội: Lý luận, thực trạng và giải pháp hoàn thiện” cho luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật học của mình.

Mục đích nghiên cứu của đề tài

Sau hơn 15 năm từ khi Quốc hội bổ sung chế định bỏ phiếu tín nhiệm vào Hiến pháp năm 1992 qua Nghị quyết 51/2001/QH10, quyền hiến định này vẫn chưa được thực hiện Tác giả mong muốn nghiên cứu cụ thể các quy định pháp luật liên quan đến chế định bỏ phiếu tín nhiệm nhằm làm rõ những vấn đề còn tồn tại và thúc đẩy việc thực hiện quyền này trong tương lai.

Thứ nhất: Nghiên cứu một cách khái quát về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của chế định bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội

Thứ hai: Tác giả đưa ra thực trạng, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng của bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội nước ta hiện nay

Thứ ba: Tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội nước ta hiện nay.

Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam đã được nghiên cứu sâu rộng bởi nhiều tác giả qua các luận án, luận văn và bài báo khoa học Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là của Trần Thị Thu Hà (2010) với bài viết “Vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, lý luận và thực tiễn - phương hướng đổi mới”, góp phần làm rõ lý luận và thực tiễn của vấn đề này.

Khóa luận tốt nghiệp - Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Trần Thị Hoa

(2011), “Hoàn thiện pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ

3 do quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”, Luận văn thạc sĩ Luật học - Trường Đại học Luật

Hà Nội; Nguyễn Mai Thuyên (2014) đã nghiên cứu về việc hoàn thiện chế định pháp luật liên quan đến việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm trong các cơ quan dân cử ở Việt Nam hiện nay trong luận văn thạc sĩ Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội Bên cạnh đó, Lê Thị Nga (2006) cũng đã có bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp bàn về cách thức thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên Chính phủ, nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình này.

Viện Nghiên cứu Lập pháp đã công bố nhiều tài liệu quan trọng liên quan đến việc bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên của Chính phủ, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết kế thừa các quy định của Hiến pháp 1946 Bài viết của Bùi Ngọc Sơn (2006) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp đã phân tích sâu sắc về vấn đề này, cung cấp những quan điểm và thông tin hữu ích cho việc cải cách hệ thống chính trị hiện nay.

Nhiều nghiên cứu về bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội đã được công bố trong các tạp chí chuyên ngành, như bài viết của Vũ Đức Khiển (2009) và Vũ Văn Nhiêm (2004) Tuy nhiên, hầu hết các công trình này dựa trên các quy định pháp luật cũ Hiện nay, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới, bao gồm Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015, cùng với Nghị quyết 85/2014/QH13 Do đó, tác giả nghiên cứu đề tài này dựa trên những quy định mới để đưa ra những phát hiện và đánh giá cụ thể hơn, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chế định bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài này được tác giả nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả áp dụng nhiều phương pháp như tổng hợp, phân tích và so sánh để đối chiếu các quy định pháp luật, từ đó phát hiện những điểm mới cho luận văn Đồng thời, tác giả cũng tìm kiếm thông tin từ các bài báo, bài viết và tạp chí khoa học pháp lý nhằm thu thập dữ liệu hữu ích phục vụ cho việc hoàn thành luận văn.

Bố cục của đề tài

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm hai chương:

Chương 1 bàn về các vấn đề lý luận liên quan đến bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, cung cấp cái nhìn tổng quan về quy trình và ý nghĩa của hình thức này Chương 2 phân tích các quy định pháp luật hiện hành về bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam, đồng thời đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình này, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động giám sát của Quốc hội.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM TẠI QUỐC HỘI 1.1 Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của bỏ phiếu tín nhiệm

Khái niệm bỏ phiếu tín nhiệm

Chế định bỏ phiếu tín nhiệm đã xuất hiện từ trước thế kỷ 20, gắn liền với sự phát triển của Nghị viện Nghị viện Anh quốc được xem là Nghị viện đầu tiên trên thế giới áp dụng hình thức này nhằm kiểm soát quyền lực của Chính phủ.

Quá trình hình thành bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện Anh bắt nguồn từ việc hình thành cơ quan Nghị viện nắm giữ quyền lập pháp quan trọng, đi đôi với quyền ấn định thuế và ngân sách Chính phủ Anh xuất phát từ Viện cơ mật của nhà Vua, được thành lập vào thế kỷ 16 – 17 để hỗ trợ nhà Vua trong việc điều hành đất nước Khi George lên ngôi vào năm 1714, do không thành thạo tiếng Anh, ông đã không thể điều hành các phiên họp của Viện cơ mật, dẫn đến việc một thượng thư có uy tín trở thành người điều hành phiên họp và dần dần trở thành Thủ tướng Các thượng thư khác sau này trở thành Bộ trưởng Chính phủ Khi các Vua sau này cố gắng lấy lại quyền lực, họ đã chọn những người có uy tín trong Hạ nghị viện, nơi đại diện cho nhân dân, thay vì từ dòng tộc của mình, phản ánh sự thay đổi trong quyền lực chính trị trong bối cảnh Cách mạng tư sản.

Thủ tướng, với vai trò là người có uy tín nhất trong Hạ nghị viện, phải là thủ lĩnh của Đảng cầm quyền, tức là Đảng chiếm đa số ghế Điều này dẫn đến việc Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện Những yếu tố này hình thành nên những đặc điểm cơ bản của chế độ đại nghị hiện nay, bao gồm: Chính phủ được thành lập dựa trên Nghị viện, phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, và chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ khi còn được Hạ nghị viện tín nhiệm; nếu mất tín nhiệm, Chính phủ sẽ bị lật đổ.

Từ năm 1721, Walpole giữ chức Bộ trưởng đứng đầu Nội các, thực hiện vai trò tương đương Thủ tướng Chính phủ hiện nay Quyền lực của ông ngày càng gia tăng, và Nội các trở thành một cơ quan thống nhất dưới sự lựa chọn và điều hành của chính ông Walpole lập luận rằng quyền lực của ông đến từ sự đồng thuận của đa số trong Viện Dân biểu, và ông tuyên bố sẽ từ chức nếu không còn được tín nhiệm Tuy nhiên, vào năm 1742, khi Hạ nghị viện không còn tín nhiệm ông, Walpole đã quyết định từ chức.

Cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đầu tiên ở Anh diễn ra vào năm 1782, sau khi quân Anh thua trận ở Yorktown trong cuộc chiến với Mỹ vào tháng 10 năm 1781 Nghị viện Anh đã quyết định rằng họ "không còn có thể tin tưởng vào các vị Bộ trưởng hiện tại" Đến tháng 3 năm 1782, Nghị viện tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thủ tướng Lord North, dẫn đến yêu cầu từ chức của ông trước Vua George III Từ giữa thế kỷ 19, bỏ phiếu bất tín nhiệm đã trở thành một khả năng thực tế và dần dần trở thành tập quán của Nghị viện mà không cần ghi trong văn bản pháp luật Trong lịch sử, đã có 11 Thủ tướng Anh bị mất chức do bỏ phiếu bất tín nhiệm, trong đó James Callaghan là trường hợp gần đây nhất.

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới thực hiện tín nhiệm Chính phủ thông qua hai hình thức chính: bỏ phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu bất tín nhiệm.

1 Xem Nguyễn Đăng Dung, Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia Hà Nội –

2 Xem: Nguyễn Đăng Dung, Đi tìm phiên thiết triều đầu tiên trong chế độ chính trị dân chủ, Tạp chí khoa học pháp lý, số 05/2006

3 Xem: http://luatkhoa.org/2014/11/5-dieu-co-the-ban-chua-biet-ve-bo-phieu-bat-tin-nhiem/ (Truy cập ngày 28/4/2016)

Bỏ phiếu tín nhiệm là một cơ chế quan trọng để Chính phủ đánh giá niềm tin của Quốc hội đối với các chính sách hoặc chủ trương cụ thể Khi thực hiện bỏ phiếu tín nhiệm, nếu đa số Quốc hội không tín nhiệm Chính phủ, họ có thể lựa chọn từ chức hoặc từ bỏ chính sách đó Ngược lại, nếu nhận được sự tín nhiệm từ Quốc hội, Chính phủ sẽ có thêm động lực và tự tin để triển khai các kế hoạch của mình.

Bỏ phiếu bất tín nhiệm là hành động của Quốc hội thể hiện sự không đồng tình với Chính phủ, nhằm kiểm chứng niềm tin của mình Nếu đa số Quốc hội không tín nhiệm Chính phủ, thì Chính phủ buộc phải từ chức Mặc dù bỏ phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu bất tín nhiệm có bản chất khác nhau, nhưng hệ quả pháp lý của chúng có thể giống nhau, dẫn đến việc Chính phủ từ chức, có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc.

Bỏ phiếu tín nhiệm là một tập quán được các Quốc hội trên thế giới áp dụng, nhưng không được quy định trong bất kỳ văn bản pháp luật nào Tại Việt Nam, thuật ngữ “tín nhiệm” được dịch sang tiếng Anh là “confidence”, mang nghĩa là niềm tin, và bỏ phiếu tín nhiệm có nghĩa là thể hiện sự tín nhiệm đối với một cá nhân hay một nhiệm vụ cụ thể Theo từ điển Tiếng Việt, “tín nhiệm” được hiểu là sự tin cậy trong một nhiệm vụ nhất định và cũng có thể được xem như là cách bày tỏ sự lựa chọn hay thái độ trong các cuộc bầu cử hoặc biểu quyết.

Tín nhiệm, theo định nghĩa năm 1998, là sự tin tưởng và giao phó vào một nhiệm vụ hay sự việc cụ thể Theo Điều 2 Nghị quyết 85/2014/QH13, "Bỏ phiếu tín nhiệm" là hành động của Quốc hội thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, nhằm làm cơ sở cho việc miễn nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm những người không được Quốc hội tín nhiệm.

Nghị quyết 85/2014/QH13 đã quy định một cách đầy đủ về khái niệm bỏ phiếu tín nhiệm, thể hiện bản chất và đặc trưng riêng của Quốc hội Việt Nam, đó là sự tín nhiệm.

4 Tác giả sẽ được phân biệt cụ thể hơn ở mục 1.2.1

Bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các chức vụ được bầu hoặc phê chuẩn là một khái niệm quan trọng, thể hiện sự tin tưởng hoặc không tin tưởng vào cá nhân đảm nhiệm chức vụ Tin tưởng ở đây không chỉ là sự tín nhiệm hiện tại mà còn là niềm tin vào tương lai Hiện nay, Quốc hội thực hiện việc tín nhiệm thông qua hai hình thức: lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm Mặc dù cả hai hoạt động này đều do Quốc hội thực hiện, nhưng chúng có những điểm khác biệt rõ rệt.

Bỏ phiếu tín nhiệm ở Việt Nam thực chất tương đương với bỏ phiếu bất tín nhiệm theo thông lệ quốc tế, vì quyết định về tín nhiệm hay không tín nhiệm các chức danh sẽ do Quốc hội chủ động thực hiện Mặc dù có sự khác biệt trong tên gọi, nhưng bản chất của hai hình thức này đều phản ánh sự tín nhiệm mà Quốc hội dành cho các chức danh.

Đặc điểm của bỏ phiếu tín nhiệm

1.1.2.1 Bỏ phiếu tín nhiệm phương thức quy kết trách nhiệm chính trị

Chính phủ, với vai trò trung tâm trong bộ máy nhà nước và quyền lực lớn, thường có xu hướng lạm quyền, do đó cần thiết phải có một cơ chế trách nhiệm tương xứng Điều này nhằm buộc Chính phủ phải chịu trách nhiệm về các chính sách, chủ trương và hành vi sai lầm chính trị của mình Trách nhiệm này chính là trách nhiệm chính trị.

Trách nhiệm chính trị là nghĩa vụ đối với cử tri và nhân dân, hình thành từ sự tín nhiệm của Quốc hội Những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn phải đạt được niềm tin này để có thể đảm nhận vai trò của mình Quốc hội không chỉ tín nhiệm cá nhân mà còn cả các chính sách, chủ trương mà Chính phủ thực hiện Do đó, khi đã chiếm được niềm tin của Quốc hội, Chính phủ cần nỗ lực hết mình để hoàn thành trách nhiệm của mình.

Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 85/2014/QH13 quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm, cho phép Quốc hội và HĐND thực hiện quyền giám sát và đánh giá mức độ tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do các cơ quan này bầu hoặc phê chuẩn Đây là cơ sở quan trọng để xem xét và đánh giá cán bộ trong hệ thống chính trị.

6 Xem sự so sánh ở mục 1.2.2

Mọi hoạt động của Chính phủ đều phải chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân và Quốc hội Khi Chính phủ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có sai sót, toàn bộ tập thể Chính phủ sẽ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, ngay cả khi lỗi thuộc về một Bộ, ngành cụ thể Chế tài cho trách nhiệm chính trị bao gồm sự bất tín nhiệm từ Quốc hội, và bỏ phiếu tín nhiệm là phương thức hiệu quả để quy kết trách nhiệm chính trị.

Trách nhiệm chính trị trong các hình thức chính thể nhà nước như cộng hòa đại nghị và cộng hòa hỗn hợp phụ thuộc vào niềm tin giữa Quốc hội và Chính phủ Khi niềm tin này bị mất, Chính phủ buộc phải từ chức, và Quốc hội không có nghĩa vụ chứng minh Chính phủ đúng hay sai Công cụ bỏ phiếu tín nhiệm trở nên quan trọng trong việc xử lý trách nhiệm chính trị của Chính phủ Quốc hội chỉ có chức năng làm luật và không thể xét xử Chính phủ khi có sai lầm chính sách, vì những sai lầm này không nhất thiết là hành vi trái pháp luật Do đó, nếu Quốc hội không còn niềm tin vào Chính phủ, họ sẽ sử dụng bỏ phiếu tín nhiệm như một cách để xử lý tình hình.

Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội là trách nhiệm chính trị, khác biệt hoàn toàn với trách nhiệm pháp lý Trong khi trách nhiệm chính trị liên quan đến sự giám sát và đánh giá từ Quốc hội, trách nhiệm pháp lý thể hiện qua hậu quả bất lợi đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.

7 Xem Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr 399

Trách nhiệm pháp lý được xác định theo các biện pháp cưỡng chế của nhà nước và quy định bởi các quy phạm pháp luật tương ứng, với sự thực hiện bởi các cơ quan tố tụng như Tòa án, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát Trách nhiệm này phát sinh từ hành vi sai trái của bất kỳ chủ thể nào trong xã hội Ngược lại, trách nhiệm chính trị dựa trên niềm tin của Quốc hội vào Chính phủ; nếu niềm tin này mất đi, Chính phủ phải từ chức mà không có cơ hội giải thích hay khiếu nại Bỏ phiếu tín nhiệm là công cụ giám sát nghiêm khắc, thể hiện sự bất ổn chính trị, và vì lý do này, nhiều quốc gia hạn chế việc sử dụng bỏ phiếu bất tín nhiệm để thay thế Chính phủ.

1.1.2.2 Bỏ phiếu tín nhiệm là một công cụ giám sát hiệu quả Để kiểm soát tốt hoạt động của Chính phủ, Quốc hội đã trang bị cho mình nhiều phương thức giám sát như xét báo cáo công tác, chất vấn, bỏ phiếu tín nhiệm… Trong các phương thức giám sát trên thì bỏ phiếu tín nhiệm là phương thức giám sát mạnh mẽ hơn cả, bởi lẽ:

Hoạt động xét báo cáo của Quốc hội liên quan đến việc nghe và đánh giá công tác của Chính phủ, trong đó ghi nhận những thành tựu và hạn chế của Chính phủ Tuy nhiên, báo cáo này có thể mang tính chủ quan, không phản ánh đầy đủ thực tế, và có thể che giấu khuyết điểm trong khi phóng đại thành tích qua các con số Do đó, việc xét báo cáo chủ yếu mang tính hình thức, chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ và thường chỉ cung cấp thông tin một chiều Mặc dù có phần giải trình trong báo cáo, nhưng vẫn chưa làm rõ những vấn đề mà Quốc hội quan tâm.

8 Xem Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật Đại học Luật Hà Nội, 2009, tr 508

9 Xem Nguyễn Đức Lan, Bỏ phiếu tín nhiệm: Gánh nặng trách nhiệm, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 11 tháng 12/2001, tr 37

Chính phủ hiện vẫn còn thiếu sót, do đó Quốc hội chưa thể thiết lập cơ chế xử lý ngay lập tức vì chưa xác định được trách nhiệm chính trị.

Hoạt động chất vấn tại Quốc hội hiệu quả hơn so với việc xét báo cáo, khi các đại biểu có cơ hội hỏi trực tiếp đối tượng bị chất vấn về những vấn đề chưa được nêu rõ Mục đích của chất vấn không chỉ là tìm kiếm thông tin mà còn quy kết trách nhiệm chính trị cho người đứng đầu ngành, lĩnh vực Tuy nhiên, chất vấn chỉ là công cụ truy tìm trách nhiệm chứ chưa thể hiện rõ thái độ của nhân dân Hơn nữa, việc chất vấn thường gặp phải hạn chế như trả lời đối phó, né tránh trách nhiệm, dẫn đến việc không làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn Tại Việt Nam, chỉ khoảng 20% đến 25% đại biểu sử dụng quyền chất vấn, và nhiều câu hỏi vẫn còn chung chung, không đi sâu vào những vấn đề bức xúc, khiến một số quan chức có vấn đề nghiêm trọng vẫn thoát khỏi trách nhiệm.

Bỏ phiếu tín nhiệm là phương thức giám sát hiệu quả nhất mà hầu hết các Quốc hội trên thế giới áp dụng để kiểm soát quyền lực của Chính phủ Đây là hệ quả pháp lý của các phương thức giám sát trước đó như xét báo cáo và chất vấn Nếu Quốc hội nhận thấy Chính phủ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc thiếu trách nhiệm, dẫn đến việc mất niềm tin, họ có thể tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm Nếu đa số thành viên Quốc hội vẫn tin tưởng, Chính phủ sẽ tiếp tục nhiệm vụ; ngược lại, Chính phủ buộc phải từ chức.

Bỏ phiếu tín nhiệm được ví như “thanh gươm treo lơ lửng” trên đầu Chính phủ, có thể rơi xuống bất cứ lúc nào nếu không còn sự tin tưởng từ Quốc hội Sự không chắc chắn về thời điểm “thanh gươm” này có thể rơi buộc Chính phủ phải tự cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động để duy trì niềm tin từ Quốc hội.

Bỏ phiếu tín nhiệm là phương thức giám sát hiệu quả, phổ biến trong các hình thức chính thể nhà nước Trong thể chế đại nghị, Quốc hội thành lập Chính phủ dựa trên nguyên tắc Đảng chiếm đa số ghế có quyền lập Chính phủ Do Quốc hội là cơ quan lập ra Chính phủ, nên họ có quyền "dung túng" cho hoạt động của Chính phủ, trong khi Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát Chính phủ thông qua quyền xét báo cáo, chất vấn và bỏ phiếu tín nhiệm Nếu Quốc hội không còn tín nhiệm Chính phủ, Thủ tướng và Nội các phải từ chức Trong thể chế cộng hòa hỗn hợp, Tổng thống do dân bầu và có quyền chọn Thủ tướng, nhưng sự lựa chọn này phải được Quốc hội phê chuẩn Quốc hội cũng có quyền phê bình và bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính phủ Ngược lại, Tổng thống có quyền giải tán Quốc hội trước hạn để bầu ra Quốc hội mới Trong thể chế cộng hòa tổng thống, không có hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm do nguyên tắc phân chia quyền lực giữa Quốc hội và Tổng thống được áp dụng một cách cứng nhắc, khiến cho cả hai cơ quan hoạt động độc lập với nhau.

Mục đích của bỏ phiếu tín nhiệm

Trên thế giới, đa phần các quốc gia khi áp dụng chế định này thường có hai mục đích cơ bản sau:

Thứ nhất, bỏ phiếu tín nhiệm nhằm mục đích răn đe, nhắc nhở và cảnh báo để

Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn khi được Quốc hội tín nhiệm trao quyền lực quản lý đất nước Chính phủ cần chịu trách nhiệm về các chính sách và hoạt động của mình Sự kiện bỏ phiếu bất tín nhiệm gần đây trong lịch sử Nghị viện Anh đã được đánh giá là một trong những buổi tối kịch tính nhất, theo bình luận của BBC, cho thấy tầm quan trọng của trách nhiệm chính trị trong hệ thống nghị viện.

11 https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1_vi%E1%BB%87n_Ph%C3%A1p (Truy cập ngày 8/5/2016)

Quốc hội có trách nhiệm đảm bảo Chính phủ hoạt động hiệu quả và không gây ra hệ quả bất lợi cho đất nước Nếu Chính phủ không hoàn thành nhiệm vụ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội Tuy nhiên, việc bỏ phiếu bất tín nhiệm không phải là giải pháp ngay lập tức; cơ chế này được thiết lập để tạo áp lực cho Chính phủ, buộc họ phải cải thiện hiệu suất nếu không muốn đối mặt với nguy cơ bị thay thế.

Thứ hai, bỏ phiếu tín nhiệm nhằm xử lý các chức danh hoặc thậm chí là cả tập thể

Chính phủ cần tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức danh không còn được Quốc hội tin tưởng Những chức danh này không hoạt động hiệu quả và không tạo ra chuyển biến tích cực, dẫn đến sự giảm sút niềm tin từ Quốc hội Nếu vượt qua cuộc bỏ phiếu, họ sẽ có cơ hội để cải thiện và lấy lại niềm tin Ngược lại, nếu không vượt qua, Quốc hội sẽ không còn kiên nhẫn và cần thay thế bằng những người có năng lực hơn.

Bỏ phiếu tín nhiệm hiện đang được một số Quốc hội trên thế giới sử dụng như một công cụ chính trị nhằm đạt được mục đích riêng, đặc biệt ở những Quốc hội có thành phần đa Đảng mà không có Đảng nào nổi bật Trong bối cảnh này, Chính phủ thường được hình thành từ liên minh giữa các Đảng có ghế trong Quốc hội, dẫn đến tình trạng Chính phủ yếu kém và thiếu sự đoàn kết Các thành viên Chính phủ đến từ nhiều Đảng khác nhau, gây ra sự bất đồng trong hoạt động và tiềm ẩn nguy cơ "tan vỡ" Do đó, Quốc hội thường xuyên sử dụng bỏ phiếu tín nhiệm để lật đổ Chính phủ, bất chấp hiệu quả hoạt động của Chính phủ đó.

So với các nước khác, mục đích của bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam cũng có những nét đặc trưng riêng Chế định này không chỉ nhằm đánh giá năng lực của các thành viên trong chính phủ mà còn thể hiện sự kiểm soát của Quốc hội đối với hành động và quyết định của các lãnh đạo.

Bỏ phiếu tín nhiệm là một công cụ giám sát quan trọng của Quốc hội, nhằm nhắc nhở và cảnh báo các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn Qua việc bỏ phiếu tín nhiệm, Quốc hội có thể kiểm tra mức độ tín nhiệm của những người giữ chức vụ, giúp họ nhận thức được hiệu quả công việc và niềm tin mà họ tạo ra trong Quốc hội Điều này không chỉ thúc đẩy họ phấn đấu hơn nữa mà còn cung cấp cơ sở cho Quốc hội trong việc đánh giá năng lực của cán bộ.

Ý nghĩa của bỏ phiếu tín nhiệm

Bỏ phiếu tín nhiệm là một phương thức hiệu quả để quy kết trách nhiệm chính trị, giúp Quốc hội có khả năng chủ động xử lý các chức danh không còn được tín nhiệm mà không cần phải chứng minh sai phạm.

Thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm, Quốc hội nhằm răn đe và nhắc nhở những chức danh hoạt động kém hiệu quả, từ đó giảm thiểu sự tín nhiệm đối với Quốc hội Hơn nữa, hoạt động này còn góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả công việc của các chức danh được Quốc hội tín nhiệm, đặc biệt là đối với Chính phủ.

Bỏ phiếu tín nhiệm được coi là một biểu hiện văn minh chính trị, giúp giảm thiểu xung đột giữa lập pháp và hành pháp, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước Quốc hội thành lập Chính phủ dựa trên sự tín nhiệm chính trị, và niềm tin này cho phép Chính phủ hoạt động Khi Quốc hội không còn tín nhiệm, Chính phủ sẽ tự nguyện rút lui một cách hòa bình, không gây xung đột Chính phủ mới sẽ rút kinh nghiệm từ Chính phủ cũ, đề ra những chính sách hợp lý hơn để cải thiện hoạt động của nhà nước Hơn nữa, việc bỏ phiếu tín nhiệm thể hiện sự trưởng thành của các chủ thể tham gia, bao gồm Quốc hội và đối tượng bị bỏ phiếu tín nhiệm.

12 Điều 3 Nghị quyết 85/2014, Điều 11 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015

Chính phủ gồm 17 thành viên có uy tín và danh dự cao, đồng thời mang trong mình lòng tự trọng Nếu không nhận được sự tín nhiệm từ Quốc hội, để bảo vệ danh dự và uy tín, Chính phủ sẽ tự động rút lui khỏi chính trường.

Phân biệt bỏ phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm và lấy phiếu tín nhiệm

quốc gia trên thế giới

Tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước có chính thể đại nghị, Quốc hội thể hiện vấn đề tín nhiệm qua hai hình thức chính: bỏ phiếu bất tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm Hai hình thức này có sự khác biệt cơ bản trong cách thức và mục đích thực hiện.

Bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ là công cụ giám sát của Quốc hội, thể hiện sự không đồng tình với Chính phủ Khi đa số đại biểu không tin tưởng, Quốc hội có thể tuyên bố bất tín nhiệm, buộc Thủ tướng và Nội các từ chức Trên thế giới, nhiều trường hợp đã xảy ra như cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Bulgaria.

Vào năm 2012, cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ Bulgaria do phe đối lập khởi xướng đã diễn ra, nhưng Chính phủ trung hữu của Thủ tướng Boiko Borisov đã vượt qua với 136 phiếu tín nhiệm Mặc dù có 72 nghị sỹ bỏ phiếu bất tín nhiệm, nhưng cần 121 phiếu để lật đổ Chính phủ, do đó cuộc bỏ phiếu không thành công.

Bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ diễn ra khi Chính phủ đề xuất vấn đề tín nhiệm trước Quốc hội nhằm thăm dò sự ủng hộ cho các chính sách của mình Nếu nhận được sự tín nhiệm từ đa số đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ có thêm động lực để thực hiện các chủ trương đã đề ra Ngược lại, nếu không được tín nhiệm, Chính phủ có thể quyết định từ chức hoặc từ bỏ những chính sách đó Hình thức bỏ phiếu tín nhiệm cũng tạo áp lực lên Quốc hội, khuyến khích cơ quan này hỗ trợ Chính phủ trong các quyết định quan trọng.

14 Xem http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sidC9836 Truy cập ngày 14/5/2014

Việc chính phủ từ chức tập thể có thể dẫn đến sự giải tán Quốc hội, như đã xảy ra trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Italia vào ngày 23 tháng 4 năm 2014 Chính phủ của Thủ tướng Renzi đã đề xuất Quốc hội tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm để thăm dò niềm tin Kết quả kiểm phiếu đã cho thấy

Chính phủ Italia đã thành công trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Hạ viện với 384 phiếu thuận và 184 phiếu chống, thông qua chương trình cải cách thị trường lao động nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp kỷ lục Đây là lần đầu tiên Thủ tướng Renzi yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm liên quan đến một cải cách, nhằm buộc các Đảng nhỏ hơn phải hỗ trợ Chính phủ trong vấn đề này.

Cả hai hoạt động bỏ phiếu bất tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đều có thể dẫn đến việc Chính phủ từ chức, nhưng chúng khác nhau về chủ thể yêu cầu Trong trường hợp bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội sẽ chủ động thực hiện nếu cảm thấy không tin tưởng Chính phủ Ngược lại, bỏ phiếu tín nhiệm là khi Chính phủ tự đề nghị Quốc hội thực hiện để thăm dò niềm tin của Quốc hội đối với mình.

1.2.2 Phân biệt bỏ phiếu tín nhiệm với lấy phiếu tín nhiệm theo quy định pháp luật

Tại Việt Nam, bên cạnh chế định bỏ phiếu tín nhiệm, pháp luật còn quy định chế định lấy phiếu tín nhiệm Khác với bỏ phiếu tín nhiệm, chế định này không được ghi nhận trực tiếp trong Hiến pháp 2013 mà chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật Cụ thể, Điều 2 Nghị quyết 85/2014/QH13 nêu rõ rằng lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội là một quy trình quan trọng.

Quốc hội thực hiện quyền giám sát và đánh giá mức độ tín nhiệm của những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, nhằm làm cơ sở cho việc xem xét và đánh giá cán bộ.

Chế định lấy phiếu tín nhiệm là một hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, nhằm bổ sung và hoàn thiện quy trình bỏ phiếu tín nhiệm tại Việt Nam.

15 Xem http://www.vietnamplus.vn/chinh-phu-italy-vuot-qua-bo-phieu-tin-nhiem-o-ha-vien/256216.vnp (Truy cập ngày 14/5/2016)

Xét về mục đích, việc lấy phiếu tín nhiệm tương tự như bỏ phiếu tín nhiệm, đều nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát của bộ máy nhà nước Hoạt động này giúp người được lấy phiếu nhận thức rõ mức độ tín nhiệm của mình, từ đó phấn đấu và rèn luyện để nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc Đây cũng là cơ sở để đánh giá cán bộ Mặc dù có chung mục đích, nhưng về bản chất, hai hoạt động này vẫn tồn tại những khác biệt cơ bản.

Lấy phiếu tín nhiệm là quá trình mà Quốc hội đánh giá mức độ tín nhiệm của cán bộ, giúp xem xét và đánh giá hiệu quả công việc của họ Phiếu tín nhiệm không chỉ phản ánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ mà còn cảnh báo những cá nhân có tín nhiệm thấp cần nỗ lực hơn nữa Kết quả của việc lấy phiếu tín nhiệm cũng là cơ sở cho hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm, thể hiện thái độ của Quốc hội đối với cán bộ được bỏ phiếu Nếu không nhận được sự tín nhiệm từ Quốc hội, cán bộ đó có thể bị miễn nhiệm chức vụ.

Về chủ thể có quyền yêu cầu lấy phiếu tín nhiệm, pháp luật không quy định ai có quyền yêu cầu Quốc hội thực hiện việc này, vì nó được thực hiện theo quy định pháp luật mà không cần kiến nghị từ bất kỳ ai Ngược lại, bỏ phiếu tín nhiệm chỉ diễn ra khi có kiến nghị từ các chủ thể có thẩm quyền như Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, hoặc ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội.

Theo Điều 18 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, đối tượng áp dụng của việc lấy phiếu tín nhiệm bao gồm: Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, và Tổng Kiểm toán nhà nước Trong khi đó, việc bỏ phiếu tín nhiệm áp dụng cho tất cả các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

20 vậy, đối tượng của bỏ phiếu tín nhiệm rộng hơn so với đối tượng của lấy phiếu tín nhiệm

Về thời hạn và thời điểm tổ chức, việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ diễn ra một lần trong mỗi nhiệm kỳ, vào kỳ họp thường lệ cuối năm thứ ba của nhiệm kỳ 16 Trong khi đó, bỏ phiếu tín nhiệm chỉ được thực hiện trong các trường hợp luật định cụ thể.

- Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị

- Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội kiến nghị

- Ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội kiến nghị

- Người được lấy phiếu tín nhiệm mà có từ hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội trở lên đánh giá tín nhiệm thấp

Bỏ phiếu tín nhiệm tại một số quốc gia trên thế giới

Chế định bỏ phiếu tín nhiệm và bất tín nhiệm hiện nay rất phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, từ châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Italia, Thụy Điển, Nga đến châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ Mặc dù các quốc gia đều áp dụng hình thức bỏ phiếu này, nhưng quy trình và thủ tục thực hiện có sự khác biệt tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh riêng của mỗi nước, tạo nên sự đa dạng trong bức tranh bỏ phiếu tín nhiệm.

1.3.1 Bỏ phiếu tín nhiệm tại Nghị viện Anh

Anh là một quốc gia có hình thức chính thể quân chủ đại nghị, trong đó bỏ phiếu tín nhiệm là công cụ giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ Hiện nay, Quốc hội Anh chủ yếu do hai Đảng Công Đảng và Đảng Bảo Thủ chi phối, với sự cạnh tranh gay gắt giữa họ Đảng nào chiếm đa số ghế trong Hạ viện sẽ có quyền thành lập Chính phủ, dẫn đến việc Chính phủ không chỉ không bị kiểm soát bởi Nghị viện mà còn có thể kiểm soát lại Nghị viện Điều này khiến cho Hạ viện trở thành nơi hậu thuẫn cho Chính phủ, làm cho việc sử dụng công cụ bỏ phiếu tín nhiệm để kiểm soát Chính phủ trở nên khó khả thi Tuy nhiên, bỏ phiếu tín nhiệm vẫn được duy trì do Chính phủ cần Nghị viện để nhận ngân sách và thông qua các dự luật Đặc biệt, bỏ phiếu bất tín nhiệm càng trở nên quan trọng khi Chính phủ không chiếm đa số trong Hạ viện hoặc khi có bất đồng nội bộ trong Đảng cầm quyền.

Nghị viện Anh có ba hình thức bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ: do phe đối lập khởi xướng, theo yêu cầu của Chính phủ và do nghị sĩ từ cả hai phe đề xuất.

Trong lịch trình làm việc, cuộc tranh luận toàn thể của Hạ viện Anh về bỏ phiếu tín nhiệm hoặc bất tín nhiệm luôn được đặt lên hàng đầu, ưu tiên hơn so với các công việc khác trong ngày.

Nghị bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm có thể được thảo luận vào bất kỳ ngày nào trong tuần Nếu phe đối lập đệ trình kiến nghị vào các ngày đã dành cho Chính phủ, Chính phủ vẫn phải dành thời gian cho việc thảo luận Nghị viện có thể được triệu tập ngay cả trong thời gian nghỉ để thảo luận về kiến nghị này Cuộc tranh luận thường bắt đầu bằng phát biểu của Thủ tướng và lãnh đạo phe đối lập, không phải từ các thành viên khác trong hai phe.

Khi Chính phủ không nhận được tín nhiệm từ Nghị viện hoặc bị biểu quyết bất tín nhiệm, hệ quả là Chính phủ phải từ chức hoặc Nghị viện (Hạ viện) bị giải tán Thủ tướng có quyền yêu cầu Nữ hoàng giải tán Nghị viện, và yêu cầu này phải được Nữ hoàng chấp nhận.

Từ năm 1895 đến nay, Chính phủ Anh đã trải qua bốn lần thất bại trong các cuộc bỏ phiếu tín nhiệm và bất tín nhiệm Những cuộc bỏ phiếu này thường dẫn đến việc giải tán Nghị viện nếu Chính phủ không giành được chiến thắng Vào năm 1993, Thủ tướng John Major đã cảnh báo rằng nếu Chính phủ không thắng trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, ông sẽ phải đề nghị Nữ hoàng giải tán Nghị viện.

Lịch sử bỏ phiếu tín nhiệm ở Anh bắt đầu từ năm 1782, khi cuộc bỏ phiếu đầu tiên diễn ra đối với Chính phủ của Lord North, sau thất bại của Anh tại Yorktown và mất một số thuộc địa trong Cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ Kết quả là Thủ tướng Anh buộc phải từ chức sau khi Viện Dân biểu thông qua bỏ phiếu bất tín nhiệm.

Năm 1895, Chính phủ của Đảng Tự do, do bất ổn nội bộ, đã thất bại trong cuộc tranh luận về kiến nghị giảm lương của Bộ trưởng Chiến tranh, dẫn đến việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ buộc phải lựa chọn giữa việc từ chức hoặc đề nghị Nữ hoàng giải tán Nghị viện Cuối cùng, Thủ tướng Lord Rosebery đã quyết định từ chức.

17 Xem http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabidw&NewsId591 Truy cập này 16/5/2016

Năm 1924, Chính phủ của Đảng Bảo Thủ, mặc dù không chiếm đa số trong Nghị viện, đã quyết định không từ chức sau thất bại trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 1923 Tuy nhiên, Chính phủ này đã không thể vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm do Công Đảng khởi xướng, dẫn đến việc phải từ chức vào ngày hôm sau để Công Đảng thành lập Chính phủ mới.

Vào tháng 3 năm 1979, sau khi có kết quả trưng cầu dân ý về Đạo luật Scotland, một kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ được đưa ra với 311 phiếu ủng hộ và 310 phiếu phản đối Thủ tướng James Callaghan đã đề nghị Nữ hoàng giải tán Nghị viện để tiến hành bầu cử sớm Kết quả, Đảng đối lập do Margaret Thatcher lãnh đạo đã giành chiến thắng và thành lập Chính phủ, đánh dấu trường hợp bỏ phiếu bất tín nhiệm gần nhất trong lịch sử Nghị viện Anh.

1.3.2 Bỏ phiếu tín nhiệm tại Đuma quốc gia Nga Điều 103 Hiến pháp Liên Bang Nga hiện hành đã trao cho Đuma nhiều quyền hạn, trong đó có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ Nhóm đại biểu Đuma quốc gia có số lượng không dưới một phần năm tổng số đại biểu có quyền đề xuất kiến nghị về việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ Kiến nghị được trình lên Hội đồng Đuma quốc gia có kèm theo dự thảo Nghị quyết của Đuma quốc gia và danh sách và chữ ký của những đại biểu Đuma quốc gia đề xuất Đuma quốc gia phải xem xét vấn đề bất tín nhiệm Chính phủ trong vòng một tuần kể từ khi kiến nghị được đưa ra Thủ tướng Chính phủ hoặc một trong các Phó thủ tướng có quyền phát biểu tại phiên họp của Đuma quốc gia thảo luận về kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm Trong quá trình thảo luận bỏ phiếu bất tín nhiệm, các đại biểu Đuma quốc gia có quyền đặt câu hỏi cho Thủ tướng và những thành viên khác của Chính phủ, bày tỏ ý kiến đồng ý với việc bỏ phiếu bất tín nhiệm hay phản đối kiến nghị Thủ tướng và những thành viên khác của Chính phủ Liên bang Nga có thể được phát biểu để cung cấp thêm thông tin, nhưng không quá ba phút Quá trình thảo luận chấm dứt khi có đề nghị chấm dứt được đa số các đại biểu tham gia biểu quyết tán thành Bên cạnh đó, nếu các đại biểu đã có kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm nhưng quyết định rút khỏi danh sách kiến nghị, đồng thời số lượng đại biểu kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm ít hơn một phần năm tổng số đại biểu Đuma quốc gia, vấn đề bỏ

24 phiếu bất tín nhiệm sẽ bị loại khỏi chương trình làm việc của Đuma quốc gia mà không cần biểu quyết bổ sung

Nghị quyết bất tín nhiệm Chính phủ được thông qua khi có đa số đại biểu Đuma tán thành qua biểu quyết công khai hoặc kín Nếu Tổng thống không đồng ý với quyết định này và Đuma quốc gia tiếp tục thể hiện sự bất tín nhiệm trong vòng ba tháng, Tổng thống phải quyết định bãi nhiệm Chính phủ hoặc giải tán Đuma.

Thủ tướng có quyền đề xuất bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ Liên bang trước Đuma quốc gia, nhưng cần có lý do hợp lý và văn bản đề nghị phải được công bố ngay lập tức Đuma quốc gia sẽ xem xét vấn đề tín nhiệm không theo thứ tự chung, và Hội đồng Đuma có quyền ấn định thời gian để thẩm định pháp lý cũng như nghiên cứu các yếu tố thực tiễn Nếu Thủ tướng đưa ra đề nghị tín nhiệm trong khi các đại biểu đang xem xét kiến nghị bất tín nhiệm, thì kiến nghị của đại biểu sẽ được ưu tiên xem xét trước Nếu Đuma quốc gia thông qua Nghị quyết bất tín nhiệm nhưng Tổng thống không đồng ý, đề nghị của Thủ tướng sẽ được xem xét lại sau ba tháng từ ngày trình bày.

Việc thảo luận về tín nhiệm Chính phủ được thực hiện tương tự như quy trình bỏ phiếu bất tín nhiệm Quyết định tín nhiệm Chính phủ cần được thông qua bằng đa số phiếu trong Đuma quốc gia, và kết quả sẽ được ghi nhận bằng Nghị quyết Nếu quyết định không được thông qua, Đuma quốc gia sẽ tiến hành biểu quyết từ chối tín nhiệm Chính phủ Nếu cả hai phương án đều không đạt, vấn đề sẽ tự động chấm dứt Gần đây, vào ngày 9 tháng 2, đã diễn ra cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ.

2005 do Đuma quốc gia khởi xướng Chính phủ của Thủ tướng Nga Mikhail Fradkov

18 Xem http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalidR&tabid8&catidC4&distid 52 (Truy cập ngày 16/5/2016)

Bỏ phiếu tín nhiệm theo các bản Hiến pháp và pháp luật Việt Nam

1.4.1 Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1946

Ngày 9 tháng 11 năm1946, Quốc hội khóa 1 đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta Hiến pháp 1946 đã trao cho Nghị viện nhân dân nhiều thẩm quyền quan trọng, trong đó có quyền giám sát trực tiếp đối với Ban thường vụ, Nội các, Bộ trưởng bằng hình thức biểu quyết tín nhiệm

Hiến pháp 1946 quy định quyền giám sát của Nghị viện nhân dân đối với Ban thường vụ tại Điều 39, cho phép Nghị viện bỏ phiếu tín nhiệm nếu có một phần tư tổng số nghị viên yêu cầu Nếu không được tín nhiệm, toàn bộ Ban thường vụ phải từ chức, và nhân viên cũ có thể được bầu lại Điều 54 quy định về bỏ phiếu tín nhiệm đối với Thủ tướng và Nội các, trong đó Bộ trưởng không được tín nhiệm phải từ chức, nhưng Nội các không phải chịu trách nhiệm liên đới về hành vi của một Bộ trưởng Thủ tướng phải chịu trách nhiệm chính trị của Nội các, và Nghị viện chỉ có thể biểu quyết tín nhiệm khi được nêu ra bởi Thủ tướng, Ban thường vụ, hoặc một phần tư tổng số Nghị viện Sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm, Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề ra thảo luận lại trong vòng 24 giờ, với thời gian cách nhau ít nhất 48 giờ Những quy định này thể hiện sự tiến bộ trong tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết quả của việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa lập hiến từ nước ngoài.

Việc xây dựng chế định bỏ phiếu tín nhiệm đầu tiên ở nước ta cần phải phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và tư tưởng trong nước.

Theo Hiến pháp 1946, đối tượng bỏ phiếu tín nhiệm bao gồm Ban thường vụ, Nội các và Bộ trưởng, trong khi yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm có thể được đưa ra bởi Ban thường vụ, Thủ tướng và một phần tư tổng số nghị viên Hiến pháp ra đời trong bối cảnh khó khăn với sự tồn tại của các đảng phản động như Việt Quốc và Việt Cách, đe dọa sự ổn định của Chính phủ Để kiểm soát quyền lực của Nội các và Bộ trưởng, chế định bỏ phiếu tín nhiệm đã được thiết lập như một giải pháp đối phó với âm mưu lật đổ Đồng thời, Nghị viện nhân dân theo mô hình đại nghị cũng cần có cơ chế này để tránh lạm quyền và nâng cao trách nhiệm của Chính phủ, đảm bảo rằng nếu Chính phủ không đáp ứng yêu cầu, có thể bị Nghị viện bất tín nhiệm và thay thế.

1.4.2 Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980

Cả Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 đều không kế thừa quy định về bỏ phiếu tín nhiệm từ Hiến pháp 1946, điều này cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận quản lý và giám sát quyền lực nhà nước Nguyên nhân của việc không tiếp tục áp dụng chế định này có thể xuất phát từ bối cảnh chính trị và xã hội của thời kỳ đó.

Hiến pháp 1959 và 1980 không thừa nhận chế định bỏ phiếu tín nhiệm do việc xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa, chủ yếu lấy cảm hứng từ Hiến pháp Liên Xô Theo đó, quyền lực tập trung vào Quốc hội, cơ quan có quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan nhà nước khác Nếu có chức danh không hoàn thành nhiệm vụ, Quốc hội có quyền bãi nhiệm mà không cần thông qua bỏ phiếu tín nhiệm Thêm vào đó, theo mô hình xã hội chủ nghĩa, nhà nước chỉ có một Đảng lãnh đạo duy nhất, không có sự phân chia quyền lực.

Việc thiết lập 31 quyền giữa các nhánh quyền lực giúp loại bỏ nhu cầu bỏ phiếu tín nhiệm để kiểm soát quyền lực của Chính phủ, khác với mô hình ở các nước tư sản.

1.4.3 Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1992 và Nghị quyết 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992

Hiến pháp 1992, kế thừa từ Hiến pháp 1980, ban đầu không công nhận chế định bỏ phiếu tín nhiệm, mặc dù ý tưởng này đã được đề xuất từ Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986 Tuy nhiên, vào cuối năm 2001, Quốc hội đã sửa đổi Hiến pháp 1992 thông qua Nghị quyết 51/2001/QH10, chính thức thừa nhận chế định bỏ phiếu tín nhiệm Khoản 7 Điều 84 đã bổ sung quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, qua đó tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội Việc này giúp Quốc hội dễ dàng xử lý các quan chức mất tín nhiệm, trong khi trước năm 2001, Quốc hội chỉ có cơ chế bãi nhiệm, gây khó khăn trong việc xử lý các quan chức vô trách nhiệm Bãi nhiệm dựa trên hành vi sai trái là thách thức lớn, vì Quốc hội không có chức năng xét xử như Tòa án Do đó, việc ghi nhận chế định bỏ phiếu tín nhiệm đã giúp Quốc hội chủ động hơn trong việc xử lý các quan chức, vì đây là trách nhiệm chính trị dựa trên sự tín nhiệm của Quốc hội mà không cần chứng minh hành vi đúng sai.

1.4.4 Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 2013 và quy định pháp luật hiện hành

Hiến pháp 2013 kế thừa chế định bỏ phiếu tín nhiệm từ Hiến pháp 1992, với sự cụ thể hóa qua Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015 Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết 85/2014/QH13 để quy định chi tiết về bỏ phiếu tín nhiệm.

1.4.5 So sánh bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013

Hai bản Hiến pháp, mặc dù ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều có điểm tương đồng trong chế định bỏ phiếu tín nhiệm Cả hai đều coi đây là phương thức quy kết trách nhiệm chính trị đối với các chủ thể được bỏ phiếu, nhằm nâng cao trách nhiệm của những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn Đồng thời, chế định này cũng góp phần tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan và cá nhân do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

 Về chủ thể có quyền yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm

Hiến pháp 1946 quy định ba chủ thể có quyền yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm, bao gồm Thủ tướng, Ban thường vụ và một phần tư tổng số đại biểu Ngược lại, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015 mở rộng quyền này cho bốn chủ thể: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, hoặc kiến nghị của ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội Sự khác biệt chính giữa hai bản Hiến pháp là việc Hiến pháp 1946 trao quyền yêu cầu cho Thủ tướng, và tỉ lệ đại biểu yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm Cụ thể, Hiến pháp 1946 yêu cầu ít nhất 25% đại biểu, trong khi Hiến pháp năm 2013 giảm tỉ lệ này xuống còn 20%.

Sự khác biệt giữa Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 có nguồn gốc từ hoàn cảnh lịch sử ra đời của chúng Hiến pháp 1946 được ban hành trong bối cảnh chiến tranh, khi Chính phủ phải đối mặt với sự hiện diện của hai Đảng phản động là Việt Quốc và Việt Cách, khiến việc bỏ phiếu tín nhiệm mang tính chính trị nhiều hơn là công cụ giám sát Ngoài ra, Hiến pháp 1946 được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nước tư sản, kết hợp với tình hình chính trị trong nước, dẫn đến việc trao quyền cho Thủ tướng yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với Nội các và Bộ trưởng Ngược lại, Hiến pháp 2013 được hình thành trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình xây dựng và phát triển.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, có trách nhiệm giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước Theo Hiến pháp 2013, bỏ phiếu tín nhiệm là hình thức giám sát tối cao của Quốc hội và là hậu quả pháp lý của hoạt động này Quyền yêu cầu bỏ phiếu tín nhiệm chỉ nên được trao cho các chủ thể có thẩm quyền giám sát Tỉ lệ đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp 1946 là 25%, cao hơn so với Hiến pháp 2013, do bối cảnh Chính phủ lúc đó đa Đảng và các Đảng phản động có nguy cơ lật đổ Vì vậy, Hiến pháp 1946 quy định tỉ lệ đại biểu lớn nhằm ngăn chặn việc lợi dụng tỉ lệ thấp để lật đổ Chính phủ.

 Về đối tượng bỏ phiếu tín nhiệm

Hiến pháp 1946 chỉ quy định đối tượng bỏ phiếu tín nhiệm gồm Ban thường vụ, Nội các và Bộ trưởng, trong khi Hiến pháp 2013 mở rộng đối tượng này cho tất cả chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn Bỏ phiếu tín nhiệm theo Hiến pháp 1946 không chỉ quy kết trách nhiệm chính trị cá nhân mà còn cả trách nhiệm chính trị tập thể, tương tự như quy định của Quốc hội các nước tư sản Tuy nhiên, một điểm khác biệt là toàn bộ Nội các không phải chịu trách nhiệm liên đới về hành vi của một Bộ trưởng; nếu một Bộ có chính sách sai lầm, chỉ Bộ trưởng của Bộ đó phải chịu trách nhiệm Điều này nhằm ngăn chặn việc các Đảng phản động như Việt quốc, Việt cách lợi dụng trách nhiệm liên đới để lật đổ Chính phủ.

 Về trình tự, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm

Trình tự và thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 có sự khác biệt rõ rệt Cụ thể, Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 54 rằng, sau khi Nghị viện không tín nhiệm Nội các, Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề này ra thảo luận lại trong vòng 24 giờ Cuộc thảo luận thứ hai phải diễn ra sau 48 giờ kể từ cuộc thảo luận đầu tiên Nếu Nội các vẫn bị mất tín nhiệm sau cuộc biểu quyết này, sẽ có những hệ quả pháp lý tiếp theo.

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BỎ PHIẾU TÍN NHIỆM TẠI QUỐC HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 2.1 Quy định pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội Việt Nam

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:03

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2007
4. Nguyễn Đăng Dung (2014), Nội dung các quy định về Quốc hội trong Hiến pháp 2013, in trong cuốn Bình luận khoa học Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, tr. 319 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nội dung các quy định về Quốc hội trong Hiến pháp 2013", in trong cuốn "Bình luận khoa học Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung
Nhà XB: NXB Lao động xã hội
Năm: 2014
5. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2006
6. Trần Ngọc Đường (2014), Chế định Quốc hội trong Hiến pháp 2013, in trong cuốn Bình luận khoa học Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, tr. 309 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định Quốc hội trong Hiến pháp 2013", in trong cuốn "Bình luận khoa học Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
Tác giả: Trần Ngọc Đường
Nhà XB: NXB Lao động xã hội
Năm: 2014
7. Bùi Xuân Đức (2012), Chế định Quốc hội trong Hiến pháp 1992: Những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, in trong cuốn Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn (tập 1), NXB Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định Quốc hội trong Hiến pháp 1992: Những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, "in trong cuốn "Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn (tập 1)
Tác giả: Bùi Xuân Đức
Nhà XB: NXB Hồng Đức
Năm: 2012
8. Báo nhân dân (2014), Hiến pháp 2013, Sự kết tinh ý chí, trí tuệ toàn dân tộc, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp 2013, Sự kết tinh ý chí, trí tuệ toàn dân
Tác giả: Báo nhân dân
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2014
9. Vũ Đăng Hinh (2000), Hệ thống chính trị Mỹ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hệ thống chính trị Mỹ
Tác giả: Vũ Đăng Hinh
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2000
10. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, NXB Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước
Tác giả: Nguyễn Thị Hồi
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2005
11. Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội
Tác giả: Trương Thị Hồng Hà
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2009
12. Phan Trung Lý (2013), Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới, sách chuyên khảo, NXB chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới
Tác giả: Phan Trung Lý
Nhà XB: NXB chính trị quốc gia
Năm: 2013
13. Phan Trung Lý (2010), Quốc hội Việt Nam: Tổ chức, hoạt động và đổi mới, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc hội Việt Nam: Tổ chức, hoạt động và đổi mới
Tác giả: Phan Trung Lý
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2010
14. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay
Tác giả: Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2003
15. Trần Thị Thu Hà (năm 2010), Vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, lý luận và thực tiễn- phương hướng đổi mới, khóa luận tốt nghiệp - Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, lý luận và thực tiễn- phương hướng đổi mới
16. Trần Thị Hoa (2011), Hoàn thiện pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, Luận văn thạc sĩ Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
Tác giả: Trần Thị Hoa
Năm: 2011
17. Nguyễn Mai Thuyên (2014), Hoàn thiện chế định pháp luật về lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm trong các cơ quan dân cử ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện chế định pháp luật về lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm trong các cơ quan dân cử ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Mai Thuyên
Năm: 2014
1. Nguyễn Đăng Dung (2006), Đi tìm phiên thiết triều trong chế độ chính trị dân chủ, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5, tr.36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đi tìm phiên thiết triều trong chế độ chính trị dân chủ
Tác giả: Nguyễn Đăng Dung
Năm: 2006
2. Bùi Xuân Đức (2001), Về những sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến bộ máy nhà nước trong hiến pháp 1992, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về những sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến bộ máy nhà nước trong hiến pháp 1992
Tác giả: Bùi Xuân Đức
Năm: 2001
3. Trương Thị Hồng Hà (2012), Địa vị pháp lý và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội Việt Nam – Một số vấn đề đặt ra khi sửa đổi Hiến pháp, Tạp chí Luật học số 01, tr.3-11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa vị pháp lý và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội Việt Nam – Một số vấn đề đặt ra khi sửa đổi Hiến pháp
Tác giả: Trương Thị Hồng Hà
Năm: 2012
4. Trương Hồ Hải (2015), Giám sát của Quốc hội đối với tổ chức mộ máy nhà nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 5, tr.23-25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giám sát của Quốc hội đối với tổ chức mộ máy nhà nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Tác giả: Trương Hồ Hải
Năm: 2015
5. Đinh Thanh Phương (2012), Góp ý sửa đổi, bổ sung quy định về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật, Số 4 (288), tr.16-21 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp ý sửa đổi, bổ sung quy định về bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội
Tác giả: Đinh Thanh Phương
Năm: 2012

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w