Vấn đề luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
Nhận diện vấn đề luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
Chương này đặt ra hai vấn đề quan trọng cần giải quyết: (i) xác định trường hợp nào một hợp đồng mua bán thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương Mại 2005 (LTM 2005) và khi nào chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ Luật Dân Sự 2005 (BLDS 2005); (ii) trong trường hợp hợp đồng mua bán nằm trong phạm vi điều chỉnh của LTM 2005, cần làm rõ những quy định nào của BLDS 2005 có thể được áp dụng.
1.1.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp đồng mua bán tài sản
Một hợp đồng có nội dung mua bán nếu thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM
Năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa được xác định theo quy định riêng, trong khi đó, nếu hợp đồng này nằm trong phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005, nó sẽ được gọi là hợp đồng mua bán tài sản.
Một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa theo phạm vi điều chỉnh của LTM 2005 khi nó đáp ứng các điều kiện nhất định Các điều kiện này bao gồm việc xác định rõ ràng các bên tham gia, hàng hóa được mua bán phải có tính chất thương mại, và việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa phải được thực hiện.
Điều kiện về chủ thể của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 được chia thành hai trường hợp: Trường hợp đầu tiên, cả bên bán và bên mua đều là thương nhân, do đó, hợp đồng sẽ tự động áp dụng Luật Thương mại Trường hợp thứ hai, nếu một bên là thương nhân và bên còn lại không phải là thương nhân, hợp đồng chỉ thuộc sự điều chỉnh của Luật Thương mại nếu bên không phải là thương nhân chọn áp dụng luật này theo khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005.
Theo quy định của Luật Thương mại 2005, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là “hàng hóa”, bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai Tuy nhiên, đất đai và các quyền đối với đất đai không được coi là hàng hóa theo định nghĩa này.
Trong hợp đồng giữa các thương nhân, mục đích chính là "nhằm mục đích sinh lợi", phản ánh sự phù hợp với mục tiêu tồn tại của họ Hội đồng thẩm phán TANDTC đã giải thích rằng hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ bao gồm các hành vi theo đăng ký kinh doanh mà còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ và nâng cao hiệu quả kinh doanh Ví dụ, công ty trách nhiệm hữu hạn thực hiện nhiều hoạt động khác nhau để thúc đẩy hiệu quả thương mại của mình.
Công ty A đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực may mặc, với hoạt động không chỉ giới hạn ở việc sản xuất hàng dệt may mà còn bao gồm mua nguyên vật liệu, xây dựng nhà xưởng, trang bị thiết bị, và thuê xe ô tô cho công nhân Ngoài ra, công ty còn tổ chức các hoạt động nghỉ dưỡng hàng năm cho công nhân và mua sắm thiết bị giải trí như ti vi Trong trường hợp có một bên là thương nhân và bên kia không phải là thương nhân, hợp đồng sẽ được coi là “nhằm mục đích sinh lợi” nhờ vào sự tham gia của bên thương nhân, mà không cần xem xét mục đích của bên không phải thương nhân.
Một hợp đồng mua bán không đáp ứng các điều kiện quy định sẽ không được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa, mà sẽ thuộc về hợp đồng mua bán tài sản theo sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2005 và/hoặc các quy định pháp luật chuyên ngành.
1.1.2 Áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
Các nội dung trình bày ở đây nhằm trả lời câu hỏi: Quy định nào của BLDS
Năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể áp dụng theo Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) nếu tuân thủ quy định tại Điều 4 của LTM 2005 Điều này nhấn mạnh rằng hoạt động thương mại phải tuân theo Luật Thương mại và các quy định pháp luật liên quan Nếu có hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật khác, thì sẽ áp dụng theo quy định của luật đó Đối với các hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và các luật khác, sẽ áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự.
Mua bán hàng hóa, như một hoạt động thương mại, phải tuân thủ Luật Thương mại 2005 và các quy định pháp luật liên quan "Pháp luật có liên quan" bao gồm các quy phạm trong lĩnh vực thương mại, bao gồm cả các quy định hướng dẫn thi hành và chi tiết về Luật Thương mại 2005, cũng như các quy phạm nhằm nội luật hóa các cam kết quốc tế và các quy định áp dụng trực tiếp các cam kết quốc tế liên quan đến mua bán hàng hóa.
Mặc dù hoạt động mua bán hàng hóa được quy định trong LTM 2005 (Điều 24-73), nhưng theo khoản 3 Điều 4 của Luật này, quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) không áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa Cách diễn đạt này có thể dẫn đến hiểu lầm, nhưng khi xem xét kỹ lưỡng các quy định trong LTM 2005, rõ ràng là Luật này không hoàn toàn loại trừ sự áp dụng của BLDS đối với hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định chung trong BLTTDS 2004 về giao kết và hiệu lực hợp đồng trong hoạt động thương mại Do không có quy định riêng cho từng loại hợp đồng thương mại, nên cần áp dụng quy định của BLDS 2005 để giải quyết các vấn đề này Điều này cho thấy các nhà làm luật không có ý định tạo ra lỗ hổng pháp luật Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, khoản 3 Điều 4 LTM 2005 cần được hiểu rằng các vấn đề pháp lý trong hoạt động thương mại không được quy định trong LTM 2005 và các luật chuyên ngành khác sẽ phải áp dụng quy định của BLDS 2005.
LTM 2005 quy định một số vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa, nhưng không đầy đủ và chi tiết như BLDS 2005 Cụ thể, về bảo hành hàng hóa, LTM 2005 chỉ nêu rõ trách nhiệm của bên bán tại Điều 49, mà không đi sâu vào các nghĩa vụ cụ thể Trong khi đó, BLDS 2005 cung cấp quy định chi tiết hơn về nghĩa vụ bảo hành, bao gồm cả thời gian và chi phí bảo hành Do đó, trong trường hợp này, có thể áp dụng bổ sung các quy định của BLDS 2005 để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
445), quyền yêu cầu bảo hành (Điều 446), sửa chữa vật trong thời hạn bảo hành (Điều
Bảo hành hàng hóa được coi là một "vấn đề pháp lý" quan trọng, liên quan đến việc bồi thường thiệt hại trong thời hạn bảo hành theo Điều 448 Theo quan điểm nghiên cứu này, việc thực thi các quy định về bảo hành không chỉ đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng mà còn góp phần nâng cao trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc cung cấp sản phẩm chất lượng.
Năm 2005 đã quy định rằng vấn đề pháp lý về "bảo hành" không áp dụng bổ sung cho các quy định về bảo hành tài sản trong Bộ luật Dân sự 2005 Việc bổ sung này có thể làm ảnh hưởng đến tính hệ thống của các quy định trong Luật Thương mại.
2005 Còn nếu cho rằng LTM không có quy định tương tự như BLDS 2005, theo đó
Thực tiễn tài phán của tòa án, trọng tài thương mại về vấn đề luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1 Áp dụng LTM hay BLDS
Quyết định giám đốc thẩm số 03/2009/KDTM-GĐT ngày 09/04/2009 của Hội đồng thẩm phán TANDTC liên quan đến vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty TNHH thương mại Đại Nam (nguyên đơn) và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương (bị đơn) Vụ án này được xét xử sơ thẩm tại TAND tỉnh Tây Ninh với bản án kinh tế sơ thẩm số 03/KDTM-ST ngày 14/7/2008, và sau đó đã được xét xử phúc thẩm bởi Tòa Phúc thẩm TANDTC.
Tòa Phúc thẩm TP Hồ Chí Minh đã ban hành bản án kinh tế phúc thẩm số 129/2008/KDTM-PT vào ngày 15/10/2008, và sau đó, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã tiến hành xét xử giám đốc thẩm với quyết định giám đốc thẩm số 03/2009/KDTM-GĐT vào ngày 09/04/2009.
Liên quan đến vấn đề được đề cập ở đây, một phần nội dung trong MỤC “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm được dẫn lại như sau:
Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa (Hợp đồng số 34/HĐĐN-06 và số 35/HĐĐN-06) Trong quá trình thực hiện, hai bên đã thay đổi nội dung hợp đồng thông qua Biên bản thỏa thuận bán lại khoai mì lát ngày 04/6/2006, dẫn đến việc thanh lý các hợp đồng cũ Mặc dù đã nhiều lần đối chiếu công nợ, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại hợp lệ, nhưng đã thiếu sót khi không viện dẫn các quy định tại Điều 29 và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự.
2 Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các Điều 428 (quy định về hợp đồng mua bán tài sản), Điều 438 (quy định về nghĩa vụ trả tiền), Điều 476 (quy định về lãi suất) của Bộ luật dân sự năm 2005 và Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng các Điều 428 và 438
Bộ luật dân sự không phù hợp để giải quyết vụ án này Thay vào đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 300 về xử phạt vi phạm và Điều 301 về mức phạt.
Ba quyết định này được nêu rõ trong Chương 7 của Luật Thương mại năm 2005, liên quan đến chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa Cụ thể, Điều 306 quy định về yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán, đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của các quy định này trong việc xử lý vi phạm hợp đồng.
3 Theo Biên bản thỏa thuận bán khoai mì lát ngày 04/6/2006 thì Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương cam kết đến ngày 15/8/2006 trả đủ 8,8 tỷ đồng cho Công ty Đại Nam, nếu quá thời hạn trên mà chưa trả đủ thì phải chịu lãi suất chậm thanh toán là 1.1%/tháng và phải chịu phạt thêm 5%/tháng trên số tiền còn nợ cho Công ty Đại Nam; tổng hai khoản là 6,1%/tháng
Tính đến ngày 30/8/2006, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã thanh toán tổng cộng 800 triệu đồng, nhưng vẫn còn nợ Công ty Đại Nam 8 tỷ đồng tiền gốc.
Theo Biên bản thỏa thuận bán khoai mì lát ngày 30/8/2006, Công ty Đại Nam yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương thanh toán trước ngày 30/9/2006, nếu chậm trễ sẽ bị phạt lãi suất 1,1%/tháng và phạt vi phạm 10%/tháng trên số tiền chậm Doanh nghiệp Nguyệt Phương cam kết thanh toán toàn bộ số nợ trước hạn và đề nghị áp dụng mức lãi suất 6,1%/tháng theo thỏa thuận ngày 04/6/2006.
Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã thực hiện nhiều lần đối chiếu công nợ, trong đó Công ty Đại Nam áp dụng mức phạt vi phạm hợp đồng lên đến 15%/tháng và lãi suất chậm thanh toán là 1,1%/tháng Đến ngày 14/9/2007, Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đề nghị trả lãi theo lãi suất ngân hàng là 1,5%/tháng, áp dụng từ ngày 01/7/2007.
Công ty Đại Nam và Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã thống nhất mức lãi suất chậm thanh toán là 1,1%/tháng, và thỏa thuận về trách nhiệm thanh toán lãi suất này không vi phạm pháp luật Tuy nhiên, hai bên không đạt được thỏa thuận về mức phạt vi phạm hợp đồng sau mỗi lần đối chiếu công nợ Mức phạt mà các bên đề xuất (5%, 10% hay 15%/tháng) không phù hợp với quy định pháp luật Theo Điều 301 Luật thương mại năm 2005, mức phạt do các bên thỏa thuận không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các Điều 428, 438 và 476 của Bộ luật dân sự năm 2005 để yêu cầu Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương chịu lãi suất nợ quá hạn theo công bố của Ngân hàng Nhà nước, nhưng quyết định này không phù hợp với quy định pháp luật và vi phạm thỏa thuận giữa các bên Thỏa thuận về trách nhiệm thanh toán lãi suất chậm và phạt vi phạm hợp đồng giữa Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương và Công ty Đại Nam được ghi nhận trong Biên bản thỏa thuận bán khoai mì vào ngày 04/6/2006 đã không được tôn trọng.
Tòa án cấp phúc thẩm đã không chấp nhận cách tính lãi của Tòa án cấp sơ thẩm, từ chối mức lãi suất 1,1%/tháng và mức phạt vi phạm 15%/tháng mà nguyên đơn đưa ra, dẫn đến tổng lãi suất là 16,1%/tháng Bên cạnh đó, Tòa án cũng yêu cầu bị đơn phải hoàn trả số tiền nợ cho 5.000 tấn khoai mì lát theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 3.600đ/kg, dựa trên báo giá khoai mì do nguyên đơn cung cấp, nhưng quyết định này cũng không đúng theo quy định pháp luật.
Để xem xét việc phạt vi phạm hợp đồng và lãi suất chậm thanh toán, cần căn cứ vào các Điều 300, 301, 306 của Luật thương mại năm 2005 và thỏa thuận giữa các bên trong Biên bản thỏa thuận bán lại khoai mì lát ngày 04/6/2006 Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương đã gặp khó khăn trong việc thanh toán cho Công ty Đại Nam do kho hàng bị cháy tại Campuchia Khi xét xử lại vụ án, Tòa án cần yêu cầu cung cấp tài liệu chứng minh thiệt hại thực tế để có cơ sở xem xét giảm mức phạt vi phạm hợp đồng cho Doanh nghiệp tư nhân Nguyệt Phương nếu có đủ chứng cứ.
Trong quyết định giám đốc thẩm, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã khẳng định rằng việc áp dụng các Điều 428, 438 và 476 của Bộ luật dân sự năm 2005 trong vụ án là không chính xác Thay vào đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 300, 301 và 306 của Luật thương mại năm 2005, vì hợp đồng tranh chấp là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nhận xét chung
Qua các vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, có thể thấy rằng các tòa án gặp khó khăn trong việc xác định căn cứ pháp luật để giải quyết, do sự tồn tại của nhiều nguồn luật khác nhau Hơn nữa, việc giao kết và thực hiện hợp đồng thường kéo dài qua nhiều thời kỳ hiệu lực của các luật khác nhau, dẫn đến sự phức tạp trong quá trình xét xử.
Dù hợp đồng rõ ràng thuộc về hợp đồng mua bán hàng hóa và áp dụng theo Luật Thương Mại 2005 (LTM 2005), một số tòa án vẫn sử dụng quy định của Bộ Luật Dân Sự 2005 (BLDS 2005) để giải quyết tranh chấp Tuy nhiên, quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã khẳng định rằng cơ sở pháp lý cho việc yêu cầu phạt vi phạm và trả lãi do chậm thanh toán phải dựa vào các điều khoản của LTM 2005, không phải BLDS 2005 Vấn đề phức tạp hơn là khi nào các quy định của BLDS 2005 được áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo LTM 2005, khiến các tòa án gặp khó khăn trong việc quyết định Có trường hợp cả hai bộ luật đều được viện dẫn cho cùng một vấn đề, như việc viện dẫn đồng thời Điều 233 LTM 1997 và Điều 305 BLDS 2005.
Theo Điều 306 LTM 2005 và Điều 305 BLDS 2005, có sự khác biệt trong cách tính tiền lãi do chậm thanh toán Sự khác biệt này không chỉ xuất phát từ việc hiểu sai nội dung pháp luật mà còn do việc không tuân thủ nguyên tắc luật riêng loại trừ luật chung (lex specialis derogat legi generali).
Trong các vụ án đã đề cập, các tòa án đã thể hiện sự nhận thức rõ ràng về hiệu lực thời gian của luật Cụ thể, Luật Thương mại 1997 (LTM 1997) được áp dụng để giải quyết tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa hoàn tất trước khi Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) có hiệu lực, mặc dù khởi kiện xảy ra sau khi LTM 1997 hết hiệu lực Đối với hợp đồng mua bán có phần giao hàng và thanh toán diễn ra trong thời gian LTM 1997 có hiệu lực, nhưng nghĩa vụ thanh toán còn lại phát sinh sau khi LTM 2005 có hiệu lực, yêu cầu trả tiền lãi do chậm thanh toán sẽ được tính theo LTM 2005 nếu không có thỏa thuận khác Hiện nay, việc áp dụng LTM 1997 hay LTM 2005 hầu như không còn là vấn đề thực tiễn, nhưng việc hiểu rõ các nguyên tắc áp dụng luật cũ và mới vẫn rất quan trọng, vì LTM 2005 có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế trong tương lai.
Danh mục các bản án liên quan
1 Quyết định Giám đốc thẩm số 03/2009/KDTM-GĐT ngày 09/04/2009 về vụ tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa
2 Bản án số 1009/2007/KDTM-PT ngày 05/09/2007 của TAND TP Hồ Chí Minh v/v tranh chấp hợp đồng mua bán
3 Bản án số 1184/2007/KDTM-ST ngày 10/7/2007 của TAND TP Hồ Chí Minh về việc Tranh chấp hợp đồng cung cấp và lắp đặt thiết bị
4 Bản án số 141/2008/ST-KDTM ngày 25/01/2008 của TAND TP Hồ Chí Minh về việc tranh chấp hợp đồng mua bán
Chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa và tư cách đương sự trong tố tụng
Các vấn đề pháp lý về chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa và tư cách đương sự
2.1.1 Tư cách chủ thể hợp đồng
Theo pháp luật thương mại, hợp đồng được coi là hợp đồng thương mại khi các bên tham gia đều là thương nhân Theo Điều 6 LTM 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh Thương nhân được phân thành hai nhóm: tổ chức kinh tế hợp pháp và cá nhân thương mại Tuy nhiên, pháp luật thương mại chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa các thương nhân mà không điều chỉnh việc thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức và quản lý hoạt động của họ Những vấn đề này thuộc phạm vi của pháp luật về chủ thể kinh doanh, bao gồm pháp luật doanh nghiệp và pháp luật hợp tác xã.
Theo pháp luật về chủ thể kinh doanh, tổ chức kinh tế được phân loại thành hai nhóm chính: (i) doanh nghiệp các loại, điều chỉnh bởi Luật Doanh Nghiệp 2005 (LDN 2005) và (ii) hợp tác xã (HTX) cùng liên hiệp hợp tác xã (LHHTX), điều chỉnh bởi Luật HTX 2003 Doanh nghiệp được định nghĩa là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, và đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, bao gồm công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, trong đó chỉ doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân HTX là tổ chức kinh tế tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện góp vốn, nhằm phát huy sức mạnh tập thể và nâng cao đời sống của xã viên LHHTX hoạt động theo nguyên tắc của HTX, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các HTX thành viên và hỗ trợ nhau trong hoạt động Cả HTX và LHHTX đều có tư cách pháp nhân theo quy định của Luật HTX 2003.
Hộ kinh doanh là một loại chủ thể kinh doanh được quy định bởi Luật Doanh Nghiệp 2005, do Chính phủ điều chỉnh Theo Nghị định số 43/2010/NĐ-CP, hộ kinh doanh do một cá nhân, nhóm người hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký tại một địa điểm, sử dụng tối đa mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Trong các chủ thể kinh doanh, việc xác định tư cách hợp đồng đối với các chủ thể có tư cách pháp nhân là rõ ràng và không gây tranh cãi Các chủ thể này, như Công ty TNHH và Công ty cổ phần, có khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập Do đó, khi hợp đồng mua bán hàng hóa ghi rõ bên bán là “Công ty TNHH X” và bên mua là “Công ty cổ phần Y”, thì hai công ty này đều có tư cách pháp nhân trong quan hệ hợp đồng.
Chủ thể hợp đồng là yếu tố quan trọng trong các giao dịch, bao gồm cả công ty hợp danh Trong trường hợp này, khi một thành viên hợp danh thực hiện hoạt động kinh doanh và ký kết hợp đồng, thì chủ thể tham gia hợp đồng sẽ là công ty hợp danh, không phải là thành viên cá nhân Điều này được quy định rõ ràng tại điểm b khoản 1 Điều 134 và khoản 1 Điều 137 Luật Doanh Nghiệp 2005.
Đối với các loại chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân, vấn đề tư cách chủ thể hợp đồng trở nên phức tạp và có thể gây tranh cãi Trong trường hợp doanh nghiệp tư nhân, câu hỏi đặt ra là liệu chủ thể tham gia giao dịch là doanh nghiệp tư nhân hay chủ doanh nghiệp Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp tư nhân là chủ thể tham gia giao dịch hợp đồng, không phải chủ doanh nghiệp, vì về mặt pháp lý, doanh nghiệp tư nhân được xem là tổ chức kinh tế tương tự như các loại công ty Do đó, doanh nghiệp tư nhân là thương nhân và là chủ thể tham gia giao dịch thương mại Thực tiễn hợp đồng cũng cho thấy doanh nghiệp tư nhân luôn đứng tên là một bên hợp đồng và được đại diện bởi chủ doanh nghiệp hoặc một đại diện theo ủy quyền.
Việc xác định chủ thể hợp đồng trong hộ kinh doanh thường không rõ ràng, gây tranh cãi giữa hộ kinh doanh và các cá nhân hoặc hộ gia đình Pháp luật không công nhận hộ kinh doanh là tổ chức kinh tế, nhưng vẫn thừa nhận nó là một loại chủ thể kinh doanh Hộ kinh doanh phải tuân thủ nhiều hạn chế pháp lý, như chỉ được đăng ký và thực hiện kinh doanh tại một địa điểm nhất định, trừ trường hợp buôn chuyến.
Pháp luật về hộ kinh doanh đã trải qua quá trình ra đời và phát triển đáng kể, phản ánh bản chất và đặc điểm pháp lý riêng biệt Đăng ký kinh doanh và quản trị hộ kinh doanh là những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả hoạt động Để hiểu rõ hơn về các bất cập trong hệ thống pháp luật này, có thể tham khảo bài viết của Ngô Huy Cương trên Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, số 25, chuyên đề về pháp luật hộ kinh doanh.
Theo Nghị định số 43/2010/NĐ-CP, kinh doanh lưu động chỉ được phép sử dụng tối đa 10 lao động (Điều 49, 54) Tuy nhiên, định nghĩa về thương nhân trong pháp luật thương mại lại chỉ rõ rằng tư cách thương nhân được cấp cho các cá nhân đăng ký hoặc tham gia đăng ký kinh doanh, không bao gồm hộ kinh doanh.
Theo Điều 6 LTM 2005, hộ kinh doanh được công nhận là một loại chủ thể kinh doanh, do đó cần thừa nhận tư cách thương nhân của hộ kinh doanh chứ không phải của cá nhân đứng sau Trong thực tiễn hợp đồng, hộ kinh doanh luôn là một bên trong hợp đồng, được đại diện bởi cá nhân là chủ hộ kinh doanh hoặc người đại diện của hộ gia đình đó.
2.1.2 Tư cách đương sự trong tố tụng
Việc xác định tư cách đương sự trong tố tụng là độc lập với tư cách chủ thể hợp đồng, dẫn đến khả năng một chủ thể pháp luật có thể là bên trong hợp đồng nhưng không phải là đương sự trong tố tụng và ngược lại Theo Điều 56 khoản 1 BLTTDS, đương sự trong vụ án dân sự bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức, cụ thể là nguyên đơn, bị đơn, và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Các chủ thể kinh doanh, bao gồm pháp nhân như công ty, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã, là những bên tham gia trực tiếp vào hợp đồng và cũng là đối tượng trong các vụ tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ từ hợp đồng đó Pháp nhân không chỉ có khả năng tham gia giao dịch pháp luật một cách độc lập mà còn phải chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính mình, theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005.
Trong loại hình công ty hợp danh, mặc dù có tư cách pháp nhân, các thành viên hợp danh vẫn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân đối với nghĩa vụ của công ty Điều này có nghĩa là họ liên đới chịu trách nhiệm thanh toán nợ nếu tài sản công ty không đủ để trang trải Để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án vào tài sản riêng của các thành viên, bên bị vi phạm hợp đồng cần có phán quyết từ tòa án hoặc trọng tài Việc này có thể được thực hiện bằng cách đề nghị tòa án đưa các thành viên hợp danh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mặc dù không phải là chủ thể hợp đồng, các thành viên hợp danh vẫn có tư cách đương sự trong tố tụng.
Đối với các chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân có tư cách chủ thể hợp đồng nhưng không có tư cách đương sự trong tố tụng Chỉ có chủ doanh nghiệp tư nhân mới có tư cách đương sự, theo quy định tại khoản 3 Điều 143 LDN 2005, cho phép họ là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các tranh chấp Điều này xuất phát từ quy định rằng tài sản sử dụng cho hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không cần chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp, dẫn đến việc doanh nghiệp tư nhân không có tài sản và không thể chịu trách nhiệm tài sản.
Cá nhân, hộ gia đình hoặc nhóm cá nhân đăng ký kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh không cần chuyển quyền sở hữu tài sản sử dụng cho hoạt động kinh doanh, do đó hộ kinh doanh không có tài sản và không thể chịu trách nhiệm về tài sản Mặc dù hộ kinh doanh là chủ thể hợp đồng, nhưng không thể là đương sự trong các vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng Đương sự trong tố tụng chỉ có thể là cá nhân đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh, hoặc trong trường hợp nhóm cá nhân, là toàn bộ hoặc một số cá nhân trong nhóm, tùy theo sự lựa chọn của đương sự yêu cầu, hoặc trong trường hợp hộ gia đình, là cá nhân đại diện hộ gia đình.
Thực tiễn tài phán liên quan đến tư cách đương sự trong tố tụng
Nghiên cứu thực tiễn về xét xử vụ án kinh doanh, thương mại liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa cho thấy nhiều bản án đã đề cập đến tư cách đương sự của các loại hình doanh nghiệp như công ty, chi nhánh công ty, doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Những bản án này cho thấy sự không nhất quán trong cách thức giải quyết của hệ thống tòa án đối với các vấn đề này.
2.2.1 Tư cách đương sự trong tố tụng của chủ doanh nghiệp tư nhân
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2003/HĐTP-KT ngày 29/05/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
Trong vụ án kinh tế liên quan đến tranh chấp hợp đồng cung cấp và lắp đặt hệ thống lọc nước tinh khiết giữa Công ty TNHH sản xuất nước uống tinh khiết Hải Cường và Doanh nghiệp tư nhân Dân Xuân, TAND TP Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm bằng bản án số 09/KTST ngày 16/01/2002 Vụ án sau đó được phúc thẩm bởi Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP Hồ Chí Minh với bản án số 15/KTPT ngày 07/05/2002 và giám đốc thẩm bởi Hội đồng thẩm phán TANDTC qua quyết định số 06/2003/HĐTP-KT ngày 29/05/2003 Tòa án sơ thẩm đã thụ lý vụ kiện với Doanh nghiệp tư nhân Dân Xuân là bị đơn, mặc dù theo quy định của LDN 1999, chủ doanh nghiệp tư nhân phải là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp Tuy nhiên, cả tòa án phúc thẩm và giám đốc thẩm đều không đề cập đến sai sót này, trong khi quyết định giám đốc thẩm còn ghi nhận Doanh nghiệp tư nhân Dân Xuân với tên gọi mới là Công ty TNHH dịch vụ và thương mại Dân Xuân.
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2006/KDTM-GĐT ngày 06/07/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty TNHH Thành Cường và Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, TAND tỉnh An Giang đã xét xử sơ thẩm với bản án kinh tế sơ thẩm số 08/KTST vào ngày 18/05/2005 Vụ án sau đó được đưa ra xét xử phúc thẩm tại Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP Hồ Chí Minh với bản án số 58/2005/KTPT vào ngày 22/08/2005 và giám đốc thẩm bởi Hội đồng thẩm phán TANDTC với quyết định số 06/2006/KDTM-GĐT vào ngày 06/07/2006 Trong quá trình xét xử, Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I được xác định là bị đơn, tuy nhiên, tòa phúc thẩm không làm rõ tư cách đương sự của doanh nghiệp này.
“Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I, do bà Ngô Thị Mai Hoa, chủ doanh nghiệp làm đại diện”
Quyết định giám đốc thẩm số 07/2007/KDTM-GĐT ngày 07/08/2007 của Hội đồng thẩm phán TANDTC
Vào năm 2007, quan điểm xét xử đã có sự thay đổi tại Hội đồng thẩm phán TANDTC trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa và Công ty TNHH Liên Hoa Tòa án TP Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, nhưng Hội đồng thẩm phán TANDTC đã tuyên hủy cả hai bản án do vi phạm thủ tục tố tụng và áp dụng luật không đúng Theo quy định tại khoản 3 Điều 101 LDN 1999, chủ doanh nghiệp tư nhân phải là nguyên đơn, trong khi Tòa án đã xác định Doanh nghiệp Đông Hoa là nguyên đơn, điều này là sai Hơn nữa, Doanh nghiệp Đông Hoa đã giải thể từ ngày 01/02/2002, nên không còn tư cách tham gia tố tụng trong vụ án.
Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã lần đầu tiên phát hiện sai sót của các tòa án cấp dưới và tự thay đổi quan điểm xét xử trong vấn đề này.
Quyết định giám đốc thẩm số 14/2009/KDTM-GĐT ngày 27/5/2009 của Tòa Kinh tế TANDTC
Sau thời điểm quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC, nhiều vụ án kinh doanh, thương mại vẫn tiếp tục thụ lý với doanh nghiệp tư nhân là bị đơn, thay vì chủ doanh nghiệp như quy định Trong vụ tranh chấp hợp đồng giữa Công ty TNHH xây dựng và thương mại NQC và Doanh nghiệp tư nhân nội thất Hoàng Hải, cả TAND quận Phú Nhuận và TAND TP Hồ Chí Minh đều xác định bị đơn là Doanh nghiệp nội thất Hoàng Hải Tuy nhiên, theo Quyết định giám đốc thẩm số 14/2009/KDTM-GĐT, Tòa Kinh tế TANDTC khẳng định rằng bị đơn đúng phải là ông Hoàng Hải, chủ doanh nghiệp tư nhân, theo quy định tại khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh xác nhận ông Hoàng Hải là chủ sở hữu, do đó ông là bị đơn hợp pháp trong vụ án này.
Quyết định giám đốc thẩm số 01/2008/KDTM-GĐT ngày 17/3/2008 của Tòa Kinh tế TANDTC
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng giữa Công ty cổ phần thương mại và vận tải biển Nghệ An và Doanh nghiệp tư nhân Biên Hòa Auto, TAND Thành phố Biên Hòa đã xét xử sơ thẩm và ghi bị đơn là “Doanh nghiệp tư nhân Biên Hòa Auto do ông Bồ Văn Nhân làm đại diện” Tuy nhiên, Tòa Kinh tế TANDTC trong quyết định giám đốc thẩm số 01/2008/KDTM-GĐT đã khẳng định rằng theo khoản 3 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005, bị đơn thực sự phải là ông Bồ Văn Nhân, chủ Doanh nghiệp tư nhân Biên Hòa Auto, do đó việc xác định bị đơn của tòa sơ thẩm và phúc thẩm là chưa chính xác.
Quyết định giám đốc thẩm số 02/2010/KDTM-GĐT ngày 21/01/2010 của Tòa Kinh tế TANDTC về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Gần đây, trong một vụ án kinh doanh thương mại liên quan đến tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, có trường hợp tòa án cấp dưới ghi nhận nguyên đơn hoặc bị đơn là doanh nghiệp tư nhân Tuy nhiên, tòa án xét xử giám đốc thẩm đã tự điều chỉnh thành nguyên đơn hoặc bị đơn là chủ doanh nghiệp tư nhân mà không đưa ra nhận xét đặc biệt nào về vấn đề này trong quyết định giám đốc thẩm.
2.2.2 Tư cách đương sự của chủ hộ kinh doanh
Trong các vụ án kinh doanh thương mại liên quan đến tranh chấp hợp đồng, khi một bên là hộ kinh doanh, tòa án các cấp gặp khó khăn trong việc xác định tư cách nguyên đơn hoặc bị đơn, liệu thuộc về hộ kinh doanh hay chủ hộ kinh doanh Sự không nhất quán này tương tự như trong các vụ án có doanh nghiệp tư nhân tham gia.
Bản án kinh tế sơ thẩm số 217/KTST ngày 25/8/2004 của TAND TP.HCM, cùng với bản án phúc thẩm số 12/KTPT ngày 24/02/2005 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM, và quyết định giám đốc thẩm số 09/2006/KDTM-GĐT ngày 07/12/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, đã tạo nên một chuỗi các quyết định quan trọng trong hệ thống tư pháp Đặc biệt, bản án kinh tế phúc thẩm số 87/2007/KDTM-PT ngày 10/9/2007 của TAND TP.HCM tiếp tục khẳng định tính hợp pháp và hiệu lực của các bản án trước đó, góp phần vào việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trong các tranh chấp kinh tế.
Trong vụ án kinh tế liên quan đến tranh chấp hợp đồng mua bán giữa Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi và Cơ sở Thuận Lợi, TAND TP Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm và ra bản án kinh tế số 217/KTST vào ngày 25/8/2004 Vụ án sau đó được đưa ra xét xử phúc thẩm bởi Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP.
Hồ Chí Minh TAND đã ban hành bản án kinh tế phúc thẩm số 12/KTPT vào ngày 24/02/2005 Sau đó, Hội đồng thẩm phán TANDTC tiến hành xét xử giám đốc thẩm với quyết định số 09/2006/KDTM-GĐT vào ngày 07/12/2006 Cuối cùng, vụ án được xét xử phúc thẩm lần hai bởi TAND.
Theo bản án kinh tế phúc thẩm số 87/2007/KDTM-PT ngày 10/9/2007 của Tòa án TP Hồ Chí Minh, tất cả các tòa án tham gia xét xử đều công nhận bị đơn "Cơ sở Thuận Lợi" là một hộ kinh doanh.
Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/KDTM-GĐT ngày 19/03/2010 của Tòa Kinh tế TANDTC v/v tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng đại lý giữa Công ty TNHH thương mại, dịch vụ Nam Giang và Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết - Ngọc Nhi, TAND thị xã Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm và tuyên án số 05/2008/KDTM-ST vào ngày 12/12/2008, sau đó phúc thẩm bởi TAND tỉnh Vĩnh Long với án số 05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 Cả hai tòa án đều xác định bị đơn là bà Lưu Thị Tuyết, chủ Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết – Ngọc Nhi Tòa Kinh tế TANDTC cũng xác nhận rằng việc xác định tư cách bị đơn của bà Tuyết là đúng, đồng thời cho rằng hợp đồng này vô hiệu do bà Tuyết không đủ tư cách chủ thể hợp đồng Tuy nhiên, trong quyết định của mình, tòa án này lại ghi nhận bị đơn là “Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết – Ngọc Nhi, do bà Lưu Thị Tuyết làm đại diện”.
Quyết định giám đốc thẩm số 12/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009 của Tòa Kinh tế TANDTC
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty TNHH Thương mại – Dịch vụ - Xây dựng Phượng Lâm và Cửa hàng Âm thanh - Ánh sáng - Nhạc cụ Huy Quang, TAND Quận 3, TP Hồ Chí Minh đã xác định bị đơn là Cửa hàng Huy Quang theo bản án sơ thẩm số 06/2007/KSTM-ST ngày 23/7/2007 Tuy nhiên, trong phiên phúc thẩm, TAND TP Hồ Chí Minh lại xác định bị đơn là bà Nguyễn Thị Quỳnh Phương, Chủ Cửa hàng Huy Quang Đến quyết định giám đốc thẩm số 12/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009, Tòa Kinh tế TANDTC đã nhấn mạnh rằng theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 01703 ngày 2/8/2000 của UBND Quận 3, TP Hồ Chí Minh, có sự không nhất quán trong việc xác định bị đơn.
Nhận xét chung
Trong một thời gian dài, tòa án các cấp đã không nhất quán trong việc xác định tư cách đương sự trong các vụ án tranh chấp hợp đồng kinh tế, đặc biệt là giữa doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Có những trường hợp doanh nghiệp tư nhân hay hộ kinh doanh được coi là đương sự, trong khi ở vụ án khác, chủ doanh nghiệp hoặc chủ hộ kinh doanh lại được xác định là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hội đồng thẩm phán TANDTC cũng không có sự đồng nhất trong vấn đề này Tuy nhiên, từ Quyết định giám đốc thẩm 07/2007/KDTM-GĐT ngày 07/8/2007, Hội đồng thẩm phán đã thiết lập một quan điểm tố tụng rõ ràng, xác định chủ doanh nghiệp tư nhân là đương sự hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong tố tụng Dù vậy, nhiều tòa án cấp dưới vẫn chưa cập nhật quan điểm này.
Sự không nhất quán trong việc xác định tư cách đương sự của doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh có thể xuất phát từ sự nhầm lẫn giữa tư cách chủ thể hợp đồng của các bên liên quan Trong thực tiễn, hợp đồng thường ghi nhận bên hợp đồng là “doanh nghiệp tư nhân X, đại diện bởi ông/bà X – chủ doanh nghiệp”, dẫn đến việc xác định quyền và nghĩa vụ hợp đồng thuộc về doanh nghiệp tư nhân hoặc hộ kinh doanh là chính xác Tuy nhiên, các phán quyết của tòa án hay trọng tài cần phải nhắm đến chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc chủ hộ kinh doanh để đảm bảo tính chính xác và hợp pháp trong giải quyết tranh chấp.
Sự nhầm lẫn giữa tư cách đương sự của doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp và hộ kinh doanh trong các vụ án kinh tế, thương mại về tranh chấp hợp đồng mua bán có thể không gây hậu quả nghiêm trọng Tuy nhiên, sự vô hại này phần nào do sự không nhất quán trong cách xử lý của tòa án Chẳng hạn, trong vụ án giữa Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Đông Hoa và Công ty TNHH Liên Hoa, tòa án đã có những quyết định khác nhau trong xét xử sơ thẩm.
TP Hồ Chí Minh bằng bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 245/2005/KDTM-
Vào ngày 29/08/2005, Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm vụ án kinh tế với bản án số 91/2005/KDTMPT, ban hành ngày 29/11/2005 Theo đó, tòa án cấp sơ thẩm lẽ ra phải từ chối thụ lý vụ án và trả lại đơn kiện cho chủ doanh nghiệp, nếu xác định rằng chỉ có doanh nghiệp tư nhân mới có quyền khởi kiện, trong khi doanh nghiệp này đã bị giải thể trước khi chủ doanh nghiệp nộp đơn.
Không thể xem nhẹ vấn đề trách nhiệm tài sản trong doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh Nếu tòa án ra phán quyết buộc họ chịu trách nhiệm nhưng doanh nghiệp đã giải thể hoặc hộ kinh doanh đã chấm dứt hoạt động, phán quyết đó sẽ không thể thi hành Chủ doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh có quyền từ chối thi hành án đối với tài sản của họ nếu không có phán quyết rõ ràng Tình huống sẽ phức tạp hơn nếu hộ kinh doanh có nhiều cá nhân làm chủ, vì cơ quan thi hành án chỉ có thể cưỡng chế đối với cá nhân cụ thể mà tòa án đã xác định chịu trách nhiệm.
Tòa án và trọng tài đều công nhận công ty là đương sự trong các vụ tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng ký kết qua chi nhánh Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong trường hợp này, công ty không chỉ là một pháp nhân mà còn là bên ủy quyền, trong khi chi nhánh chỉ đóng vai trò là đơn vị phụ thuộc và bên được ủy quyền.
Danh mục bản án, phán quyết trọng tài liên quan
1 Quyết định giám đốc thẩm số 06/2003/HĐTP-KT ngày 29/05/2003 về vụ án “Tranh chấp hợp đồng cung cấp và lắp đặt hệ thống lọc nước tinh khiết”
2 Quyết định giám đốc thẩm số 06/2006/KDTM-GĐT ngày 06/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”
3 Quyết định Giám đốc thẩm số 07/2007/KDTM-GĐT ngày 07/8/2007 Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”
4 Quyết định giám đốc thẩm số 01/2008/KDTM-GĐT ngày 17/3/2008 v/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
5 Quyết định giám đốc thẩm số 12/2009/KDTM-GĐT ngày 22/4/2009 v/v tranh chấp hợp đồng mua bán;
6 Quyết định giám đốc thẩm số 14/2009/KDTM-GĐT ngày 27/5/2009 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ
7 Quyết định giám đốc thẩm số 02/2010/KDTM-GĐT ngày 21/01/2010 của Tòa Kinh tế TANDTC về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
8 Quyết định giám đốc thẩm số 03/2010/KDTM-GĐT ngày 21/01/2010 về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”
9 Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/KDTM-GĐT ngày 19/03/2010 v/v tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa
10 Bản án số 448/2006/KDTM-ST ngày 07/9/2006 của TAND TP Hồ Chí Minh v/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
11 Bản án số 31/2007/KDTM-ST ngày 29/3/2007 của TAND TP Hà Nội v/v tranh chấp hợp đồng mua bán
12 Bản án số 69/2007/KDTM-PT ngày 13/07/2007 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”
13 Bản án số 2178/2007/KDTM-ST ngày 04/12/2007 của TAND TP Hồ Chí Minh v/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
14 Bản án số 1784/2007/KDTM-ST ngày 24/9/2007 của TAND TP Hồ Chí Minh v/v” tranh chấp hợp đồng đại lý”
15 Phán quyết trọng tài trong vụ kiện về tranh chấp liên quan đến thanh toán trong hợp đồng mua bán máy móc (Theo: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) – Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) (2010), Các phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Nxb Tư pháp