Kê biên tài sản đang tranh chấp

Một phần của tài liệu Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng theo pháp luật việt nam (Trang 48 - 51)

2.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam 30

2.1.6. Kê biên tài sản đang tranh chấp

Hiểu theo nghĩa thông thường nhất thì kê biên là việc kiểm kê, kê ra danh mục các tài sản để chờ xử lý [43, tr. 485]. Dưới góc độ pháp luật TTDS, kê biên tài sản được hiểu là biện pháp cưỡng chế nhà nước do tòa án quyết định áp dụng và chấp hành viên tiến hành kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao lại cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản, cấm việc tẩu tán, phá hủy nhằm đảm bảo cho việc xét xử, thi hành án và các quyết định của cơ quan nhà

42

nước được thuận lợi, đúng pháp luật [44, tr. 408]. Trong TTDS, BPKCTT kê biên tài sản đang tranh chấp do tòa án quyết định áp dụng là việc tòa án kiểm kê, thống kê những tài sản đang có tranh chấp trong vụ kiện để nắm rõ về những tài sản đó và buộc người đang giữ tài sản tranh chấp không được chuyển dịch, tẩu tán hay phá hủy tài sản đang có tranh chấp đó. BPKCTT đƣợc quy định tại khoản 6 Điều 114 BLTTDS năm 2015 và điều kiện áp dụng biện pháp này đƣợc quy định tại Điều 120 BLTTDS năm 2015. Khác với những BPKCTT đã nêu trên, biện pháp kê biên tài sản đang có tranh chấp chỉ đƣợc áp dụng khi có yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT mà tòa án không có quyền tự mình áp dụng. Theo quy định tại Điều 120 BLTTDS năm 2015, BPKCTT kê biên tài sản tranh chấp chỉ đƣợc tòa án quyết định áp dụng “nếu trong quá trình tòa án giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản”. Từ quy định này, việc áp dụng BPKCTT kê biên tài sản trong TTDS phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Thứ nhất: BPKCTT kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với tài sản đang có tranh chấp mà không phải là áp dụng đối với tất cả tài sản của đương sự trong VADS. Những tài sản không phải là tài sản tranh chấp hoặc những tài sản chỉ liên quan đến tài sản tranh chấp sẽ không nằm trong phạm vi những tài sản bị áp dụng BPKCTT kê biên. Từ quy định này cho thấy nếu đương sự là người có nghĩa vụ và đương sự có tài sản để thi hành nghĩa vụ đó nhưng tài sản đó không phải là tài sản tranh chấp thì tài sản đó không thể bị kê biên để đảm bảo cho thi hành án. Ý nghĩa của BPKCTT kê biên là nhằm bảo toàn tài sản, đảm bảo cho khả năng thi hành án của đương sự nhưng với quy định chỉ kê biên đối với tài sản tranh chấp thì khả năng đảm bảo cho thi hành án sẽ có hiệu quả không cao. Thiết nghĩ phạm vi tài sản bị kê biên cần phải đƣợc quy định mở rộng hơn để BPKCTT kê biên đạt hiệu quả cao nhất trong việc bảo toàn tài sản để thi hành án.

- Thứ hai: BPKCTT kê biên tài sản tranh chấp chỉ đƣợc tòa án quyết định áp dụng khi “có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu

43

tán, hủy hoại tài sản tranh chấp”. Mặc dù Điều 120 BLTTDS năm 2015 quy định là “có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp” chứ không phải là“người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp” nhƣng vẫn tạo ra những cách hiểu khác nhau. Có cách hiểu là chỉ khi có những căn cứ xác thực là người đang giữ tài sản tranh chấp đã có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp thì mới coi là có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản và khi đó tòa án mới quyết định áp dụng BPKCTT kê biên. Nếu hiểu theo cách này thì Điều 120 BLTTDS năm 2015 chƣa thực sự đáp ứng đƣợc tính chất khẩn cấp bởi quyết định áp dụng BPKCTT kê biên gần nhƣ không còn có tác dụng bảo toàn tài sản tranh chấp, tài sản tranh chấp có thể đã bị tẩu tán, đã bị hủy hoại. Nhƣng theo một cách hiểu khác, vì Điều 120 BLTTDS năm 2015 quy định là “có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp” nên BPKCTT kê biên sẽđƣợc áp dụng khi mà hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp chƣa xảy ra trên thực tế, mới chỉ có căn cứ cho thấy các hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp sẽ xảy ra nên cần áp dụng ngay biện pháp kê biên. Hiểu theo cách này mới có thể ngăn chặn đƣợc hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản, việc áp dụng BPKCTT kê biên mới có tính kịp thời. [ 34, tr 81,82].

Theo quy định tại khoản 2 Điều 120 BLTTDS năm 2015, tài sản tranh chấp sau khi bị kê biên “có thể đƣợc thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của tòa án”. Nếu phải đƣợc bảo quản tại cơ quan thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ gặp rất nhiều khó khăn về kho bãi, về nhân lực, về chi phí trông coi, bảo quản tài sản kê biên. Ngoài ra, vấn đề trách nhiệm từ việc bảo quản tài sản kê biên cũng là một vấn đề làm nhiều cơ quan thi hành án dân sự lo ngại. Nếu tài sản kê biên đƣợc giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định mới của tòa án thì trách nhiệm bảo quản tài sản kê biên của những người này cần phải đƣợc quy định chặt chẽ, rõ ràng để tránh tình trạng tài sản sau khi kê

44

biên lại bị hủy hoại, tẩu tán do chính người được giao bảo quản thực hiện.

Hiện tại, khoản 2 Điều 120 BLTTDS năm 2015 chƣa quy định nào về vấn đề này, vì thế khoản 2 Điều 120 BLTTDS năm 2015 cần đƣợc bổ sung hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề trách nhiệm của người được giao bảo quản tài sản kê biên.

Một phần của tài liệu Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng theo pháp luật việt nam (Trang 48 - 51)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(99 trang)