V. CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG LAO TRONG CHĂM SÓC SỨC KHỎE
1. CÁC YẾU TỔ THUẬN LỢI DỄ MẮC LAO VÀ CƠ CHẾ LÂY TRUYỀN
1.1 Các yếu tố thuận lợi dễ mắc lao
- Người tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên, liên tục với nguồn lây, nhất là người tiếp xúc với nguồn lây chính dễ có nguy cơ bị bệnh. Trẻ em càng nhỏ tiếp xúc với nguồn lây càng dễ bị bệnh hơn.
- Trẻ em chưa được tiêm phòng bằng vaccine BCG: Khả năng bảo vệ của vaccine BCG trung bình là 65-70%.
- Các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới bệnh lao: các nước nghèo, mức sống thấp…
- Một số bệnh tạo điều kiện thuận lợi dễ mắc lao: suy dinh dưỡng, còi xương ở trẻ em, bệnh đái tháo đường, bệnh bụi phổi, loét dạ dày – tá tràng (người lớn), HIV/AIDS, phụ nữ thời kỳ thai nghén, …
1.2 Cơ chế lây truyền.
Bệnh lao là bệnh lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp. Người bệnh ho, nói, khạc, tạo ra những hạt nước bọt rất nhỏ chứa đầy vi khuẩn lao bay lơ lửng trong không khí (Nói : 200, Ho : 3.500, Hắt xì hơi : 4.500 – 1.000.000).
Người ta có thể hít phải những hạt này vào phổi và mắc bệnh. Những bệnh nhân trong đờm có vi trùng lao lây nhiều hơn. Vi trùng lao có thể gây bệnh ở tất cả các bộ phận trong cơ thể. Người nhiễm lao có thể trở thành bệnh lao, tỷ lệ từ nhiễm lao chuyển thành mắc lao là 10% trong đời người, cao nhất trong 24 tháng.( HIV 10% năm). Những người sống gần bệnh nhân, nguy cơ lây bệnh càng cao.
Cơ chế lây truyền.
1.3 PHÁT HIỆN NGUỒN LÂY
Muốn phòng bệnh cho công đồng, giảm được nguồn lây lao, phải phát hiện nguồn lây. Tất cả bệnh nhân lao dù bị lao ở cơ quan nào trong cơ thể đều do vi khuẩn lao gây nên và đều có thế là nguồn lây. Tuy nhiên, nguồn lây lao quan trọng nhất là bệnh nhân lao phổi có trực khuẩn lao phát hiện được trong đờm bằng phương pháp soi trực tiếp (lao phổi AFB (+)). Những bệnh nhân này có khả năng lây cho những người xung quanh gấp 10- 20 lần so_với các trường hợp lao phổi không có vi khuẩn trong đờm (lao phổi AFB (-)) và lao ngoài phổi. Khả năng lâỵ càng mạnh khi có tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên,liên tục.Thời gian nguy hiểm của nguồn lây bắt đầu từ khi có triệu chứng lâm sàng đến khi được điều trị đặc hiệu và mức độ nguồn lây giảm dần sau khi điều trị đặc hiệu 2 tuần.Đường xâm nhập của vi khuẩn lao vào cơ thể có thể bằng nhiều đường khác nhau nhưng chủ yếu bằng đuờng hô hấp.
Khoảng 10 % cơ thể nhiễm lao sẽ chuyển sang lao bệnh và sẽ trở thành nguồn lây mới. Một nguồn lây hết nguy hiểm không phải đã khỏi bệnh. Do vậy muốn phòng lao cho cộng đồng có hiệu quả phải phát hiện được tối đa có thể người lao phổi AFB (+) để chữa khỏi bệnh lao cho những người này. Đây là một trong những biện pháp dự phòng sự truyền bệnh của bệnh lao. Trên thực tố cần chủ ý phát hiện sớm nguồn lây chính tức là những trường hợp lao phổi AFB (+) qua phương pháp nhuộm soi trực tiếp. Những người có triệu chứng ho khac đàm kéo dài cần cho xét nghiệm đờm đề tìm trực khuẩn kháng acid
cồn. Đây là một phương pháp thụ động khi bệnh nhân đến khám ở cơ sở y tế mới phát hiện bệnh. Về chuẩn đoán bệnh xuất phát từ những triệu chứng lâm sàng và X quang để làm xét nghiệm tìm trực khuẩn lao. Trong thực tế chẩn đoán lao bệnh còn gặp nhiều khó khăn nhất là các trường hợp AFB (-) hoặc lao ở trẻ em. Các phương pháp chân đoán khác thì đợi thời gian dài hoặc đòi hỏi kỹ thuật cao do đó khó thực hiện .
Triệu chứng nghi ngờ mắc lao
1.4 LOẠI BỎ NGUỒN LÂY BẰNG ĐIỀU TRỊ ĐẶC HIỆU THUỐC KHÁNG LAO
Việc phát hiện sớm bệnh lao để điều trị đặc hiệu và có kiểm soát nguồn lây là một trong những phương pháp phòng bệnh lao hữu hiệu nhất hiện nay nhưng tốn kém và đòi hỏi nhiều nhân lực. Hiện nay Chương trình chống lao quốc gia khuyến cáo sử dụng các phác đồ điều trị bệnh lao cho cộng đồng gồm:
Phác đồ IA: Bao gồm 2RHZE/4RHE, Sử dụng cho bệnh nhân lao phổi lao ngoài phổi mới phát hiện.
Phác đồ IB: 2RHZE/4RH, chỉ định cho tất cả các trường hợp ở trẻ em
Phác đồ II: 2 SHRZE/1RHZE/5HRE, chỉ định cho những người bệnh lao tái
Phác đồ IIIA: 2RHZE(S)/10RHE, chỉ định cho các trường hợp lao màng não và lao xương khớp người lớn.
Phác đồ IIIB: 2RHZE/10RH chỉ định cho các trường hợp lao màng não và lao xương khớp ở trẻ em .
Ngoài ra, Chương trình chống lao quốc gia đưa ra phác đồ IV, để điều trị cho các trường họp lao đa kháng thuốc và chỉ áp dụng tại các cơ sở được phép điều trị người bệnh kháng đa thuốc như sau:
Phác đồ IV: 8ZEKm(Cm)LfxPtoCs/12ZELfxPtoCs
(Cm: Capreomycine; Lfx: Levofioxacin; Pto: Prothionamide; Cs: Cycloserin;
Km: Kanamycin)
1.5 CÁCH LY BỆNH NHÂN:
Nhằm giảm nguy cơ tiếp xúc giữa bệnh nhân với những người không được bảo vệ.
Ở nước ta hiện nay trực khuẩn lao gây bệnh chủ yếu là trực khuẩn lao người (Mycobacterium tuberculosis hominis). Các loại trực khuẩn lao bò và trực khuẩn không điển hình ít gặp hơn. Khi trực khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể thì nó có thể khu trú bất kỳ bộ phận nào và gây bệnh ở đó và có thể là nguồn lây. Nhưng trên thực tế chỉ những người lao phổi AFB dương tính mới là nguồn lây chính. Khi bệnh nhân này ho khạc làm bắn đờm ra trong không khí, trong không khi sẽ chứa các hạt đờmchứa trực khuẩn lao, khi người tiếp xúc hít phải các hạt này, trực khuẩn lao sẽ đi vào cơ thể bằng đường hô hấp.
Tuỳ theo số lượng trực khuẩn lao vào trong cơ thể và khả năng đề kháng của cơ thể mà cơ thể sẽ ở trong tình trạng nhiễm lao hay sẽ trở thành bệnh lao.
Nguồn lây nguy hiểm nhất là khi bệnh nhân có triệu chứng ho khạc. Nguồn lây này sẽ hết nguy hiểm khi được phát hiện và điều trị kháng lao trong một thời gian ngắn, thậm chỉ khoảng 1- 2 tuần. Ba mẫu xét nghiệm đàm âm tính, trong ba ngày khác nhau chứng tỏ khả năng lây truyền bệnh nghiệm kết quả cấy âm tính đảm bảo không còn nguy cơ truyền bệnh nữa nghĩa là đã hết nguồn lây. Như vậy việc cách ly bệnh nhân chỉ thực hiện đối với những trường hợp lao phổi AFB (+) đến khi xét nghiệm đàm (-) thì không cần cách ly nữa. Nếu có điều kiện, sau khi bệnh nhân được chẩn đoán, cần điều tra những người thân của bệnh nhân để phát hiện sớm những người nhiễm lao có
nguy cơ chuyển thành bệnh lao để có biện pháp phòng bệnh. Nên cách ly bệnh nhân trong 2 tuần đầu, bệnh nhân phải mang khẩu trang khi di chuyển và che miệng khi ho, hắt hơi, nói to để tránh lây lan cho những người xung quanh. Nếu bệnh nhân điều trị nội trú thì tốt nhất là có phòng điều trị riêng cho từng bệnh nhân lao phổi AFB (+), đặc biệt đối với lao phổi đa kháng thuốc để tránh lây lan và lây chéo lẫn nhau. Trong các cơ sở đặc biệt như trại giam, trung tâm chữa bệnh, giáo dục và lao động xã hội (trung tâm 05/06) có thế có nhiều người nhiễm HIV, khả năng lây nhiễm cao, cần cách ly thỏa đáng để điều trị mới tránh được lây lan bệnh cho những người khác.
1.6 XỬ LÝ CHẤT THẢI VÀ ĐỒ DÙNG BỆNH NHÂN Hướng dẫn bệnh nhân khac nhổ đúng nơi quy định, rửa tay bằng xà phòng thường xuyên, quản lý và xử lý tốt đờm và các chất khac nhổ, chất tiết, chất thải của bệnh nhân lao (khử khuẩn bằng hypochlorite Na1%, đốt...) đồ dùng, chăn màn bệnh nhân lao được thường xuyên phơi phóng dưới ánh sáng mặt trời
1.7 VỆ SINH MÔI TRƯỜNG
Để giảm nguy cơ truyền bệnh giữa người và người khi nguồn lây chưa được phát hiện thì cần phải: tránh ở chật chội, nhà của phải thông thoáng, đầy đủ ảnh sáng, làm mới không khi trong nhà..., giáo dục mọi người có thói quen khac nhổ đúng chỗ qui định như khạc vào bô, lọ có chất sát trùng có nắp đậy, biết cách phòng bệnh cả cho người khác, không ho, hắt hơi hoặc nói hưởng về phía người đối diện… Ngoài ra phải có chế độ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý phù hợp với sức khoẻ, có điều kiện nuôi dưỡng tốt ăn uống đầy đủ về chất và về lượng. Như vậy, muốn phát hiện triệt để nguồn lây, phương pháp đơn giản nhất là xét nghiệm đàm bằng phương pháp nhuộm soi trực tiếp cho tất cả những bệnh nhân ho khac trên 2 tuần. Việc điều trị cần đảm bảo đúng công thức, đúng liều lượng, đều đặn và đủ thời gian. Phát hiện và điều trị cần gắn liền với nhau và là điểm mấu chốt của chương trình chống lao. Ngoài ra , cần giải quyết tốt vệ sinh môi trường , tránh chật chội, đảm bảo đủ ánh sáng…
cũng góp phần làm giảm sự lây truyền bệnh