Đặc điểm các cấu trúc giải phẫu xương ổ răng trên ở những bệnh nhân có chỉ định cấy ghép implant

Một phần của tài liệu NGHIÊN cứu GIẢI PHẪU HÌNH ẢNH XOANG hàm TRÊN và cấu TRÚC LIÊN QUAN ỨNG DỤNG TRONG cấy GHÉP IMPLANT TRÊN PHIM CONE BEAM (Trang 63 - 66)

4.3.1. Kích thước xương hàm vùng mất răng 4.3.1.1. Chiều cao của xương hàm vùng mất răng.

Chiều cao để cấy ghép implant ở hàm trên được tính từ đỉnh xương ổ răng đến sàn xoang hàm hoặc sàn hốc mũi. Trong nghiên cứu của tôi, chiều cao phổ biến nhất nằm trong khoảng 4-9 mm, chiếm 58.8%. Nhóm có chiều cao ≥10 mm chiếm tỷ lệ 26.5 %.

4.3.1.2. Chiều rộng xương hàm vùng mất răng

Chiều rộng của sống hàm mất răng được đo tại các mức theo chiều đứng ở các vị trí 3,4,5 và 6 mm từ đỉnh của xương ổ răng. Kích thước bé nhất được coi là chiều rộng của sống hàm mất răng. Trong nghiên cứu của chúng tôi khoảng chiều rộng hay gặp nhất là ≥6 mm, chiếm tỷ lệ 55.9%, tiếp theo là khoảng < 4 mm chiếm 23.5%, chiều rộng 4-5 mm chiếm tỷ lệ ít nhất 20.6%. Số liệu này cho thấy khi xương hàm trên tiêu nhiều theo chiều cao thì chiều rộng sẽ tăng lên.

4.3.2. Phân loại sống hàm mất răng theo theo Aune và Gintaras (2004) [5]

Chúng tôi phân loại sống hàm mất răng theo Aune và Gintaras (2004).

Nhóm I: Chiều của của sống hàm mất răng ≥ 10 mm và chiều rộng ≥ 6 mm.

Thiếu hụt chiều dọc ở vùng trước phải ≤ 3mm từ đỉnh xương ổ răng tới cổ của răng bên cạnh. Ở nhóm I, có ít hoặc không có tiêu xương hàm, cho nên, các nguyên tắc của phẫu thuật implant có thể được thực hành. Nhóm II, A, B, C, D: Ở nhóm IIA, chiều cao của sống hàm mất răng ≥10 mm và chiều rộng từ 4-5 mm (sống hàm mất răng hẹp). Ở nhóm IIB, chiều cao của sống hàm mất răng là từ 4-9 mm, và chiều rộng ≥ 6mm (sống hàm mất răng nông). Ở nhóm IIC, chiều cao của sống hàm răng từ 4-9 mm và chiều rộng từ 4-5 mm (sống hàm mất răng nông và hẹp). Ở nhóm IID, chiều cao của sống hàm mất răng ≥ 10 mm, chiều rộng ≥ 6 mm, thiếu hụt chiều cao vùng trước lớn hơn 3mm từ đỉnh xương ổ răng đến cổ răng bên cạnh.

Nhóm III: Chiều cao của sống hàm mất răng < 4mm và chiều rộng < 4 mm (Sống hàm mất răng hẹp và nông cho đặt implant).

Trong nghiên cứu của tôi, số lượng xương ổ răng thuộc nhóm II chiếm tỷ lệ 55.9%, số lượng xương ổ răng thuộc nhóm I chiếm tỷ lệ 20.6%, và số lượng xương ổ răng thuộc nhóm III chiếm tỷ lệ 23.5%. Kết quả nghiên cứu của tôi khác với kết quả nghiên cứu của Aune và Gintaras (2004) [5], khi các tác giả đưa ra số lượng xương ổ răng thuộc nhóm I chiếm tỷ lệ 60.1%, số lượng xương ổ răng thuộc nhóm II chiếm tỷ lệ 28.0%, và số lượng xương ổ răng thuộc nhóm III chiếm tỷ lệ 11.9%.

Trong trường hợp xương ổ răng thuộc nhóm I, đây là dạng sống hàm thích hợp cho việc đặt implant. Chiều cao và chiều rộng xương đầy đủ cho việc đặt và ổn định của implant tiếp sau. Implant 8 mm hoặc dài hơn thường được lựa chọn cho xương loại này. Có một số hệ thống implant có đường kính nhỏ (3 mm đường kính) hoặc lớn (5 mm đường kính). Chỉ định cho sử dụng implant có đường kính nhỏ hạn chế trong trường hợp này bởi sự đáp ứng cơ sinh học kém, đặc biệt khi các vị trí răng hàm thường xuyên chịu lực ăn nhai lớn. Các implant có đường kính lớn cũng ít được sử dụng thì sống hàm thường không có phép. Khoảng cách tối thiếu

giữa các implant hoặc giữa implant với răng bên cạnh nên ít nhất 3 mm. Kết quả tốt nhất để đặt implant nên theo nguyên tắc: chiều rộng sống hàm mất răng = kích thước implant + 3 mm.

Trong trường hợp xương ổ răng thuộc nhóm II, đây là dạng sống hàm thiếu chiều cao hoặc chiều rộng cho việc đặt implant. Khi có sự thiếu hụt đó, các phương pháp làm tăng chiều cao hoặc chiều rộng được sử dụng bao gồm các biện pháp nong xương hàm, ghép xương, tái sinh xương có hướng dẫn (guided bone regereration), nâng xoang hàm kín hoặc hở. Phẫu thuật nâng xoang hàm thường được sử dụng trong trường hợp chiều cao xương ổ răng không thích hợp cho cấy ghép ở vùng răng sau. Phẫu thuật nâng xoang nên được thực hiện khi sống hàm mất răng có 4-5 mm chiều cao. Chiều cao tốt thiểu cho sự ổn định kết quả sau cấy ghép implant là 4 mm [57].

Trong trường hợp xương ổ răng thuộc nhóm III, sống hàm mất răng thiếu xương trầm trọng, sự ổ định cho đặt implant không thể thực hiện. Tái sinh xương có hướng dẫn, ghép xương, nong xương và các phương pháp khác cần được thực hiện trước khi đặt implant cho tất cả các bệnh nhân thuộc nhóm III.

Một phần của tài liệu NGHIÊN cứu GIẢI PHẪU HÌNH ẢNH XOANG hàm TRÊN và cấu TRÚC LIÊN QUAN ỨNG DỤNG TRONG cấy GHÉP IMPLANT TRÊN PHIM CONE BEAM (Trang 63 - 66)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(77 trang)
w