Nghiên cứu các phương pháp điều trị bệnh nói chung là nhằm để đánh giá hiệu quả của các phương pháp và từ đó lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp cho từng bệnh nhân ở từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Mục đích nghiên cứu điều trị bệnh chốc bằng bôi fucidin phối hợp với uống kháng sinh cefixim và so sánh với nhóm chỉ bôi đơn thuần bằng fucidin trong đề tài của chúng tôi là nhằm xác định xem hiệu quả của mỗi phương pháp điều trị, khả năng làm mất nhanh các triệu chứng cơ năng và lành thương tổn thế nào để sớm cắt được nguồn lây bệnh, ngăn chặn được các biến chứng có thể xảy ra. Với mẫu 70 bệnh nhân đạt tiêu chuẩn chẩn đoán là bệnh chốc được lựa chọn nghiên cứu sẽ được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm, áp dụng phác đồ điều trị theo như phương pháp nghiên cứu đã đề ra và được theo dõi đánh gía tại các thời điểm sau 3 ngày, 7 ngày và 10 ngày điều trị.
Những kết quả nghiên cứu được thể hiện qua các bảng biểu sau:
4.3.1. Kết quả điều trị bệnh chốc của nhóm 1 (uống cefixim kết hợp bôi fucidin) Theo dõi kết quả điều trị bệnh chốc bằng uống cefixim kết hợp bôi fucidin tại bảng 3.16 và biểu đồ 3.2, chúng tôi thấy gần 1/2 số bệnh nhân đã đạt được kết quả rất tốt (tức là khỏi bệnh) ngay sau 3 ngày điều trị. Hầu hết số bệnh nhân còn lại đạt kết quả tốt (45,71%), chỉ còn 5,72% đạt kết quả trung bình, không có trường hợp nào là không đáp ứng điều trị. Tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả rất tốt và tốt tăng dần, sau 7 ngày điều trị thì lệ này đạt tới 97,14% và sau 10 ngày điều trị thì hầu hết (100%) bệnh nhân đạt kết quả rất tốt và tốt. Đây là một kết quả khá như mong muốn khi tiến hành điều trị một bệnh nhiễm trùng da cấp tính bằng sự phối hợp kháng sinh tại chỗ và toàn thân. Theo dõi diễn biến lâm sàng, chúng tôi thấy các triệu chứng toàn thân của bệnh nhân giảm nhanh như: cắt sốt nhanh, hạch phụ cận cũng giảm đau, ngứa cũng giảm nhiều có những trường hợp thì triệu chứng này mất hoàn toàn. Các thương tổn da xung quanh giảm đỏ rõ rệt, thương tổn là bọng nước hoặc vảy tiết hoặc có cả bọng nước và vảy tiết có khoảng 48,57% bệnh nhân là lành hoàn toàn hoặc chỉ còn lại dát tăng sắc tố tại nơi thương tổn.
Đạt được kết quả như trên, chúng tôi cho rằng việc phối hợp kháng sinh tại chỗ và toàn thân đã phát huy được được tính ưu việt tương tác hỗ trợ của chúng. Dùng kháng sinh toàn thân theo đường uống, thuốc sẽ được hấp thu qua đường tiêu hóa, sự hấp thu được tăng lên sau khi ăn uống. Thuốc được hấp thu chậm ở đường tiêu hóa nhưng tồn tại lâu trong huyết tương. Khi vào trong huyết tương thuốc sẽ lưu hành trên toàn bộ khắp các mô và dịch của cơ thể, nên nó ngăn chặn xuất hiện của thương tổn mới và các biến chứng tại chỗ có thể xảy ra như chốc loét, chốc chàm hóa viêm mô bào, viêm quầng...
và các biến chứng nguy hiểm cho các phủ tạng như thận, màng tim, khớp...
gây viêm cầu thận cấp, viêm màng ngoài tim, viêm khớp. Kháng sinh dùng tại chỗ dưới dạng kem sẽ được hấp thu dễ dàng qua da và qua thương tổn.
Fusidic axit có tác dụng diệt khuẩn tốt, nhất là đối với các cầu khuẩn và các vi khuẩn nhạy cảm khác. Tác dụng chính của fucidin là ở tại chỗ thương tổn do chúng được ngấm sâu vào mô và có nồng độ cao. Cho nên, khi phối hợp với cefixim thì tác dụng diệt vi khuẩn sẽ hỗ trợ nhau rất tốt. Có lẽ vì thế nên chỉ sau 3 ngày điều trị đã có khoảng gần một nửa số bệnh nhân khỏi bệnh, số còn lại cũng gần khỏi hoặc được cải thiện rõ rệt. Với kết quả chúng tôi thu được sau 3 ngày điều trị thì thực sự làm chúng tôi yên tâm điều trị và theo dõi bệnh nhân trong những ngày tiếp theo và cũng làm cho bệnh nhân tin tưởng tuyệt đối vào chỉ định điều trị này. So sánh kết qủa nghiên cứu của chúng tôi điều trị bệnh chốc bằng bôi Fucidin đơn thuần với kết quả của tác giả khác điều trị bằng bôi mupirocin đơn thuần và một nhóm điều trị bằng erythromycin đơn thuần thì thấy kết quả điều trị nhóm uống erythromycin có khoảng 90% bệnh nhân đạt kết quả tốt, tức là khỏi bệnh. Còn nhóm bôi kem mupirocin thì có 97% bệnh nhân đạt kết quả tốt [12]. Kết quả nghiên cứu này chúng tôi cũng chỉ được biết qua số liệu thống kê. Tuy nhiên, phương pháp dùng để đánh giá hiệu quả điều trị và các cá thể trong mẫu được theo dõi trong bao nhiêu ngày điều trị thì chúng tôi không được biết. Như vậy, chúng tôi cũng không có cơ sở để so sánh với kết quả của mình. Ví dụ như sau 3 ngày điều trị, nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ bệnh nhân đạt kết quả rất tốt và tốt đã chiếm tới 94,28%. So sánh kết quả của tác giả trên thì thấy tác dụng điều trị của kháng sinh đường uống và kháng sinh dùng tại chỗ là không có sự khác biệt. Nhưng thời gian điều trị để đạt được kết quả như vậy mới là điều đáng quan tâm. Sau 3 ngày điều trị, bệnh khỏi, sẽ sớm cắt nguồn
lây, tránh những biến chứng, giảm tốn kém và phiền hà cho người bệnh. Đó là những giá trị của phương pháp phối hợp điều trị này. Hiện nay, các chủng vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh ngày càng gia tăng. Một trong những nguyên nhân là do lạm dụng sử dụng thuốc kháng sinh và điều trị không có kháng sinh đồ, dùng thuốc không đủ liều. Vì vậy, việc sử dụng một kháng sinh có thể sẽ kéo dài thời gian điều trị, làm gia tăng tình trạng kháng lại thuốc kháng sinh của vi khuẩn. Thời gian điều trị cũng sẽ kéo dài, thậm chí kết quả điều trị không khỏi, hoặc có thể gây những biến chứng tại chỗ hoặc toàn thân. Với những kết quả điều trị và theo dõi của chúng tôi thu được thì không những làm mất nhanh triệu chứng sốt, giảm đau hạch phụ cận nếu có mà còn làm thương tổn khô nhanh hơn, giảm triệu chứng cơ năng ngứa đáng kể. Kết quả điều trị này cho thấy thời gian điều trị đã được rút ngắn. Do đó hạn chế được sự lây lan cho bản thân người bệnh, cho gia đình, cho cộng đồng và quan trọng hơn là ngặn chặn được những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra đối với người bệnh.
4.3.2. Kết quả điều trị bệnh chốc của nhóm 2 (bôi fucidin đơn thuần)
Điều trị bệnh chốc bằng kem fucidin đơn thuần được chúng tôi theo dõi và tổng hợp tại bảng 3.17 và biểu đồ 3.3. Sau 3 ngày điều trị thì chưa thấy có một trường hợp nào khỏi bệnh hoàn toàn (tỷ lệ khỏi tốt là 0,00%), Chỉ có 22,86% là gần khỏi (tức là mức độ khỏi tốt), phần lớn bệnh nhân dừng ở mức độ kết quả đạt trung bình (65,71%), một số trường hợp là ít tác dụng chiếm 11,43%. Sau 7 ngày điều trị thì mức độ khỏi bệnh trung bình chỉ còn 40%, đã có bệnh nhân khỏi bệnh chiếm 2,86% và không còn trường hợp nào có kết quả ít tác dụng. Như vậy, sau 7 ngày điều trị thì kết quả điều trị đang tiến triển tốt dần lên. Sau 10 ngày điều trị thì tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả
khỏi rất tốt và tốt cũng lên đến 94,28%, Nhưng trong đó tỉ lệ khỏi rất tốt thấp, chỉ chiếm 17,14%. Theo dõi trên lâm sàng, chúng tôi thấy khi chỉ bôi kem fucidin, nếu thương tổn là vảy tiết ướt và tiết dịch thì sau 3 ngày điều trị cũng cho kết quả tiến triển tốt lên nhưng không rõ ràng. Với những thương tổn là bọng nước hoặc vết trợt, tiết dịch thì giai đoạn này không thể bôi trực tiếp kem kháng sinh vào thương tổn được. Bởi vì, có thể thuốc gây bết da, hạn chế bốc hơi nước, gây sung huyết. Với những bệnh nhân có sốt và có phản ứng hạch phụ cận thì kem kháng sinh tại chỗ không thể cắt sốt và giảm viêm sưng, đau hạch phụ cận được vì tác dụng chính của thuốc điều trị tại chỗ là ở tại chỗ bôi thuốc.
Trong quá trình theo dõi, chúng tôi thấy khi bệnh nhân có thương tổn bọng nước hoặc bọng nước dập vỡ tiết dịch thường có ngứa. Trong khi kem kháng sinh bôi tại chỗ ở giai đoạn này thường chưa phát huy tác dụng. Vì vậy, có những bệnh nhân xuất hiện thêm thương tổn mới hoặc thương tổn rất lâu khô. Sau 3 ngày điều trị chưa có bệnh nhân nào kết quả rất tốt. Đến ngày thứ 7 thỡ mới cú hơn ẵ số bệnh nhõn đạt kết quả tốt. Sau 10 ngày thỡ hầu hết bệnh nhân cũng đạt kết quả tốt trở lên. Như vậy, để lành bệnh thì bệnh nhân cần phải kéo dài thời gian điều trị. Điều đó đã ảnh hưởng đến tâm lí người bệnh, người bệnh lo lắng.
Kết quả nghiên cứu của Koning .S và cộng sự năm 2002 ở Anh [23]
đánh giá hiệu quả điều trị bệnh chốc bằng bôi kem fucidin so sánh với một nhóm chứng thì thấy sau một tuần điều trị nhóm bôi Fucidin có tỷ lệ khỏi bệnh là 55% trong khi nhóm đối chứng chỉ đạt 13%. Nhưng sau 2 và 4 tuần điều trị thì khoảng các chệnh lệch về tỷ lệ khỏi bệnh giữa hai nhóm thu hẹp dần. Là vì về sau nhóm chứng có tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh tăng nhanh hơn.
Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại bảng 3.17 là sau 1 tuần điều trị bằng bôi Fucidin đơn thuần thì tỷ lệ bệnh nhân đạt mức độ khỏi tốt và rất tốt là 60%. Từ các kết quả nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng fucidin có thể sớm phát huy được hiệu quả hơn so với một số loại kháng sinh dùng tại chỗ khác trong điều trị các bệnh nhiễm trùng nói chung và chốc nói riêng. Có lẽ đây cũng là một trong những đặc điểm ưu việt của loại thuốc bôi này. Một số tác khác cũng có những nhận xét tương tự [28],[29],[30],[31],[33],[34].
4.3.3. So sánh hiệu quả điều trị của 2 nhóm
So sánh hiệu quả sau 3 ngày điều trị của 2 nhóm nghiên cứu uống cefixim phối hợp với bôi fucidin thấy kết qủa rất tốt và tốt đạt tới 94,28%
trong khi nhóm đối chứng chỉ đạt 22,86%. Sau 3 ngày điều trị thì phần lớn bệnh nhân ở nhóm đối chứng mới chỉ đạt được kết quả ở trung bình (65,71%) và có một số trường hợp là ít tác dụng (11,43%). Sự khác biệt về tỷ lệ các mức độ khỏi bệnh giữa hai nhóm đều có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05. Như vậy có thể nói rằng điều trị bệnh chốc, một bệnh nhiễm trùng cấp tính thì việc phối hợp kháng sinh tại chỗ và toàn thân là cần thiết và hiệu quả. Bởi vì, khi thương tổn là bọng nước hoặc bọng nước dập vỡ, tiết dịch thì kháng sinh uống có thể đóng vai trò chủ đạo, phát huy được tác dụng diệt khuẩn.
Trong khi kháng sinh tại chỗ ở giai đoạn này có thể còn hạn chế tác dụng do dịch tiết làm pha loãng nồng độ thuốc, thuốc không bám được vào thương tổn... Khi thương tổn đóng vảy tiết khô hay ướt thì kháng sinh uống vẫn có tác dụng như vậy còn kháng sinh bôi lúc này sẽ có hiệu quả hơn. Vì vậy, dù ở bất kỳ giai đoạn bệnh chốc, việc phối hợp kháng sinh dùng toàn thân và kháng sinh tại chỗ đều có tác dụng hỗ trợ nhau. Cơ thể bệnh nhân, đặc biệt
là vị trí thương tổn luôn đảm bảo được lượng thuốc đủ để tiêu diệt vi khuẩn làm tăng nhanh tốc độ lành bệnh.
Sau 7 ngày điều trị kết quả từ tốt trở lên của nhóm nghiên cứu đạt 97,14%, số ít bệnh nhân còn lại đạt kết quả trung bình (2,86%,). Trong khi đó, nhóm đối chứng cũng tăng dần tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả rất tốt và kết quả tốt lên tới 60,00%, nhưng chủ yếu là ở mức độ khỏi tốt, còn tỷ lệ khỏi rất tốt đạt rất thấp (chỉ có 2,86%), phần bệnh nhân còn lại là đạt kết quả trung bình. Như vậy, ở giai đoạn sau 3 đến 7 ngày điều trị thì tốc độ khỏi bệnh của nhóm đối chứng mới tăng nhanh. So sánh với nhóm nghiên cứu thì tỷ lệ các mức độ khỏi bệnh này đã đạt được ngay sau 3 ngày điều trị. Sở dĩ có kết quả tốt tăng lên nhanh ở nhóm đối chứng trong giai đoạn này có thể là do lúc đầu ở những bệnh nhân có thương tổn bọng nước, hoặc vết trợt, tiết dịch thì dùng thuốc bôi tại chỗ sẽ bị pha loãng nồng độ hoặc trôi chảy nên chưa phát huy được tác dụng do không đảm bảo được nồng độ diệt khuẩn.
Sau 3 ngày có thể thương tổn đã giảm tiết dịch hoặc đóng vảy tiết, thuốc bôi giữ được ở thương tổn lâu hơn nên mới phát huy tác dụng tối đa. Vì vậy, kết quả điều trị của nhóm đối chứng tăng nhanh, nhưng tỷ lệ bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn thì chưa cao.
So sánh kết quả nghiên cứu của 2 nhóm điều trị sau 7 ngày cho thấy rõ ràng phương pháp điều trị bệnh chốc bằng cách phối hợp kháng sinh toàn thân và kháng sinh tại chỗ cho kết quả tốt hơn, bệnh nhanh khỏi nhanh hơn so với phương pháp chỉ dùng kháng sinh bôi tại chỗ.
Sau 10 ngày điều trị kết quả từ tốt trở lên của nhóm nghiên cứu đạt 100%, trong đó phần lớn bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn (88,57%). Nhóm đối chứng cũng đạt tỉ lệ rất cao là 94,28%, nhưng tỷ lệ bệnh nhân đạt mức
độ khỏi rất tốt (khỏi hoàn toàn) không cao, chỉ chiếm 17,14%, vẫn còn 5,72% trường hợp bệnh mới chỉ được cải thiện ở mức độ trung bình. Như vậy, tỉ lệ đạt 100% bệnh nhân sạch thương tổn hoặc để lại dát tăng sắc tố của nhóm nghiên cứu đã chứng minh kháng sinh cefixim uống thuộc nhóm cephalosporin thế hệ 3 có tác dụng rất tốt với các chủng cầu khuẩn khi phối hợp với kháng sinh tại chỗ là fucidin.
Mặc dù ở giai đoạn đầu của bệnh, kháng sinh tại chỗ tác dụng hạn chế, nhưng giai đoạn sau, khi thương tổn giảm tiết dịch thì kháng sinh tại chỗ phát huy tác dụng, tiêu diệt vi khuẩn tại chỗ nhanh mà không mất thời gian hấp thu như kháng sinh đường uống. Nhận xét này cũng phù hợp với kết quả điều trị từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 10 thấy tỉ lệ bệnh nhân đạt kết quả từ tốt trở lên của nhóm đối chứng tăng nhanh. Tuy nhiên, khi sử dụng bôi fucidin đơn thuần thì sau 10 ngày điều trị vẫn còn một tỷ lệ bệnh nhân chỉ cải thiện ở mức độ trung bình và tỷ lệ bệnh nhân khỏi hoàn toàn không cao. Điều đó không những có thể gây phiền hà cho người bệnh, mà còn gây lây lan bệnh tật và có thể tạo điều kiện để sinh ra các chủng vi khuẩn kháng thuốc.
Sơ bộ kết luận: so sánh điều trị bệnh chốc bằng uống cefixim phối hợp với bôi fucidin với nhóm chỉ bôi fucidin đơn thuần, kết quả cho thấy phương pháp phối hợp kháng sinh toàn thân với kháng sinh tại chỗ là có hiệu quả cao, bệnh nhanh khỏi, giảm lây lan, hạn chế biến chứng và sớm cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
4.3.4. Tác dụng không mong muốn của thuốc
Theo dõi những tác dụng mong muốn của thuốc trong quá trình điều trị, chúng tôi không phát hiện được biểu hiện bất thường nào tại chỗ bôi thuốc (như dát đỏ tăng, tăng nề, tăng tiết dịch, tăng ngứa, hoặc thương tổn lan rộng
hơn, teo da, giãn mạch...) hoặc những biểu hiện bất thường toàn thân như phát ban mày đay, hồng ban đa dạng, sốc, sốt... Tất cả những bệnh nhân của 2 nhóm nghiên cứu cũng đều được thử chức năng gan, thận trước và sau khi điều trị, nhưng không phát hiện được biểu hiện gì bất thường. Như vậy, các thuốc sử dụng khá an toàn.
Đánh giá hiệu kết quả của một phương pháp điều trị cần phải căn cứ nhiều yếu tố, ngoài tác dụng cải thiện bệnh trên lâm sàng thì còn phải tính đến giá thành của thuốc, tiện dụng của thuốc. Cefixim và fucidin là những thuốc có sẵn trên thị trường, giá cả vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế của đa số người dân. Thuốc cũng dễ tìm kiếm cho cả các tuyến cơ sở.