Đặc điểm lâm sàng của các bệnh nhân nghiên cứu

Một phần của tài liệu Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh u não di căn trên cộng hưởng từ 1 5 tesla ở các bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát tại bệnh viện bạch mai (Trang 57 - 63)

4.1.1.1. Giới tính

Qua nghiên cứu 124 BN UTP di căn não cho thấy nam giới chiếm tỷ lệ

cao 76,6%, tỷ lệ nam/nữ là 3,3. Sự khác biệt tỷ lệ nam và nữ có ý nghĩa thống kê với p<0,05. UTP và UNDC từ UTP hay gặp ở nam giới có thể do thói quen sinh hoạt và nam giới hút thuốc lá nhiều hơn. Kết quả của chúng tôi không khác nhiều so với kết quả của nhiều tác giả. Nghiên cứu của Nguyễn Quang Huy (2015) tỷ lệ nam chiếm 82,61%, tỷ lệ nam/nữ là 4,75/1 . Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương (2012) trên 30 BN UTP di căn não, tỷ lệ nam/nữ = 2;75; nam chiếm 73,3%. Nghiên cứu của Phạm Văn Thái trên 81 BN UTPKTBN di căn não tỷ lệ này là 2,4; nam chiếm 70,4% . Theo nghiên cứu của Mai Trọng Khoa và cs trên 60 BN UTP di căn não tỷ lệ này là 2,5 . Tóm lại, trong nhiều nghiên cứu thì tỷ lệ BN nam UTP có di căn não chiếm tỷ lệ

cao.

4.1.1.2. Tuổi

Tuổi trung bình của các BN là 59,16 ± 9,73; tuổi hay gặp nhất là 59, cao nhất là 82 tuổi, tuổi thấp nhất là 32. Đa số gặp ở nhóm tuổi từ 40-60 với tỷ lệ

là 57,3%; nhóm trên 60 tuổi chiếm 40,3%; nhóm tuổi dưới 40 chỉ có 3/124 BN (0,02%). Tương tự, tỷ lệ nhóm từ 40 đến 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao ở cả hai giới, lần lượt là 56,8% (54/95) và 58,6% (17/29). Chúng tôi không ghi nhận trường hợp UNDC nào ở trẻ em. Bệnh chủ yếu gặp ở các bệnh nhân già và

trung niên. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu khác. Theo Nguyễn Thanh Phương (2012), tuổi trung bình là 58,9 tuổi; bệnh nhân trên 40 tuổi chiếm tỷ lệ 96,7%; nhóm tuổi hay gặp nhất là 40-60 tuổi chiếm 46,7% . Theo Nguyễn Quang Huy (2015), tuổi trung bình của các BN

là 58, tuổi thấp nhất là 38 và tuổi cao nhất là 87. Theo Victor (2016), nhóm tuổi thường gặp trong UTP là 50-70 tuổi, chiếm 60% .

4.1.1.3. Nghề nghiệp

Trong nghiên cứu của chúng tôi về nghề nghiệp cho thấy tỷ lệ BN trí

thức (cán bộ, công nhân viên chức, hưu trí…) chiếm tỷ lệ cao nhất 36,3%.

Nhóm BN làm nghề tự do và nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là

29% và 27,4%. Mặc dù có nhân viên công chức, những người có trình độ, nhưng có thể do lối sống và thói quen hút thuốc nên tỷ lệ BN trong nhóm trí

thức cao hơn các nhóm khác.

4.1.1.4. Về tiền sử hut thuốc

Theo biểu đồ 3.1, tỷ lệ BN có tiền sử hút thuốc là 65,6%; tỷ lệ nhóm nam có hút thuốc chiếm 72,6%; không ghi nhận trường hợp BN nữ nào hút thuốc. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ trong nhóm có hút thuốc (p = 0,000 <0,05). Mặc dù BN nữ không hút thuốc, nhưng họ vẫn có thể

nằm trong yếu tố nguy cơ vì có thể hút thuốc thụ động. Mặt khác, UTP có thể

do nhiều yếu tố nguy cơ khác như: môi trường sống hay làm việc, đột biến gen. Các tỷ lệ nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của Phạm Văn Thái (2013): tỷ lệ BN có tiền sử hút thuốc là 63%, trong đó nam giới hút thuốc chiếm 89,5%; không trường hợp nữ nào có tiền sử hút thuốc . Tác giả Nguyễn Thanh Phương (2012) cho thấy tỷ lệ hút thuốc trong các BN UTP di căn não là 66,7%; không gặp BN nữ hút thuốc . Theo Mai Trọng Khoa (2013), nguyên nhân hút thuốc lá nguyên nhân hàng đầu gây UTP. Có tới 85- 90% UTP là do hút thuốc và 85% BN tử vong do bệnh này có liên quan đến hút thuốc. Những người hút thuốc có nguy cơ mắc UTP cao gấp 20-40 lần người không hút thuốc.

4.1.1.5. Triệu chứng lâm sàng

Trong nghiên cứu của chúng tôi, đau đầu là triệu chứng thần kinh thường gặp nhất, chiếm tỷ lệ 80,6%. Nôn và buồn nôn chiếm 29,8%. Đây thường là

các dấu hiệu để các bác sĩ lâm sàng chỉ định chụp CHT phát hiện ra bệnh.

Nghiên cứu của Nguyên Thanh Phương cũng cho thấy triệu chứng đau đầu hay gặp nhất chiếm 66,7% các trường hợp .

Dấu hiệu thần kinh khu trú có 45 trường hợp chiếm 36,3%. Nghiên cứu của Phạm Văn Thái trên 81 BN UTPKTBN di căn não chỉ ra rằng: hội chứng thường gặp là hội chứng tăng áp lực nội sọ (72,8%), dấu hiệu liệt nửa người là

19,8% . Qua phân tích, chúng tôi thấy đa số các BN này có u ở bán cầu đại não, kích thước u lớn, phù não rộng xung quanh, gây tổn thương bó tháp. Có

BN lúc đầu trên lâm sàng chẩn đoán là tai biến mạch máu, vì BN đã lớn tuổi, cao huyết áp và có dấu thần kinh khu trú. Nhưng khi khai thác bệnh sử, tiền sử, thăm khám chẩn đoán hình ảnh (CT,MRI) đã có chẩn đoán UNDC và thấy có u phổi. Điều này đặt ra yêu cầu cần chẩn đoán phân biệt các BN liệt nửa người do tai biến mạch máu não với UDCN. CLVT không rõ cần chụp MRI để phát hiện các tổn thương di căn não, từ đó tìm u nguyên phát và lưu ý tổn thương ở phổi, vì theo nhiều tác giả tỷ lệ UNDC có nguồn gốc từ phổi chiếm trên 50% ,,.

Theo tác giả Jeffrey, dấu hiệu lâm sàng hay gặp lần lượt là đau đầu, tăng áp lực nội sọ, dấu hiệu thần kinh khu trú và động kinh. Theo Lym và cs, triệu chứng thần kinh hay gặp nhất là đau đầu chiếm 40-50%, yếu nửa người chiếm 20-30%, động kinh chỉ chiếm 15-29%.

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5/124 BN có biểu hiện động kinh chiếm 4%. Tỷ lệ co giật trong nghiên cứu của Phạm Văn Thái (2013) là

7,4% . Theo nhiều tác giả, BN có biểu hiện động kinh là do tổn thương tế bào thần kinh, vùng vỏ não, vùng hải mã, dẫn đến các quá trình điện học bất thường ở não. Hiện tượng này có thể xảy ra ở 1 vùng hay lan truyền đến các vùng khác của não, hậu quả là co giật một phần hay toàn thể cơ thể .

Chúng tôi thấy có 15 trường hợp không có biểu hiện về thần kinh chiếm 12,1%. Kết quả này tương đương với của tác giả Phạm Văn Thái (2013) là

14,8%. Của Jena và cs (2008) là 10%. Kết quả của chúng tôi thấp hơn của Nguyễn Thanh Phương (2012) là 20%, nhưng các tác giả này nghiên cứu trên

cỡ mẫu nhỏ hơn của chúng tôi với n=30. Theo tác giả Hayat (2014) thì có một số trường hợp UNDC không có triệu trứng lâm sàng, khi đó CHT sọ não thường được để đánh giá bilan hoặc phân loại giai đoạn bệnh trước khi điều trị . Theo tác giả Mai Trọng Khoa (2015), việc chẩn đoán và đánh giá giai đoạn bệnh một cách chính xác là yếu tố tiên quyết để có một kết quả điều trị

tốt. Các bác sĩ đã phải tiến hành các xét nghiệm toàn trạng tốt để tránh bỏ sót tổn thương, đặc biệt là các di căn. Từ đó mới có thể đưa ra phương pháp điều trị đúng, chính xác, kịp thời .

4.1.1.6. Đặc điểm chất chỉ điểm khối u

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 90 BN được làm xét nghiệm CEA (72,6%) và 86 BN được làm xét nghiệm Cyfra 21-1 (69,4%). Chúng tôi sử

dụng giá trị ngưỡng (cut-off) là 5 ng/ml cho CEA và 3,3 ng/ml cho Cyfra21-1.

Đây là ngưỡng được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu về UTP. Chúng tôi nhận thấy, nồng độ CEA huyết thanh trung vị là 13,54 ng/ml. Tỷ lệ BN có

nồng độ CEA > 5ng/ml là 76,7% tương ứng độ nhạy là 83,1%. BN có nồng độ

CEA > 20ng/ml chiếm 45,6% (bảng 3.4). Độ nhạy của CEA trong nghiên cứu Phạm Văn Thái (2013) là 69,1%; BN có nồng độ CEA trên 20 ng/ml chiếm 41,9%. Độ nhạy của CEA trong nghiên cứu của Trần Minh Thông (2013) là

81,3% ,.

Về Cyfra 21-1, chúng tôi thấy nồng độ huyết thanh trung vị là 7,27 ng/ml. Độ nhạy của Cyfra 21-1 là 84,7%. Tỷ lệ BN có nồng độ chất này trong huyết thanh > 20 ng/ml là 14% (bảng 3.4). Điều này cho thấy, mặc dù các BN UTP đã di căn não (giai đoạn IV) nhưng giá trị của Cyfra 21-1 không cao hơn nhiều so với giá trị vượt ngưỡng (3.30). Kết quả này không khác nhiều so với nồng độ Cyfra 21-1 trung vị của nhiều tác giả khác khi nghiên cứu về UTP.

Nghiên cứu của Phạm Văn Thái (2013) trên 81 BN thì giá trị này 3,47 ng/ml;

của Lê Ngọc Hùng, Trần Minh Thông (2013) trên 49 BN là 7,9 ,.

4.1.1.6. Các type mô bệnh học của các bệnh nhân UTP

Áp dụng phân loại mô bệnh học của WHO 2014 cho UTP, nghiên cứu 124 BN, chúng tôi nhận thấy ung thư biểu mô tuyến chiếm tỷ cao nhất 87,1%

(108/124). UTP biểu mô vảy có 7 trường hợp chiếm 5,6% (biểu đồ 3.2).

Tỷ lệ UTBMT trong UTP thường khác nhau tùy từng nghiên cứu, nhưng có đặc điểm chung là mô bệnh học thường hay gặp và chiếm tỷ lệ cao nhất.

Theo Nguyễn Hữu Lân và cs (2010), UTBMT chiếm 79,2%. Theo Cung Văn Công (2015), UTBMT chiếm đa số với 72,34%; UTPTBN chiếm tỷ lệ nhỏ.

Trong các nghiên cứu về UTP di căn não của các tác giả trong và ngoài nước đều ghi nhận loại UTBMT chiếm cao nhất và cao hơn nhiều loại biểu mô vảy.

Tác giả Mai Trọng Khoa và cs (2013) nghiên cứu 60 BN UTPKTBN di căn não thì UTBMT chiếm 53,3%; UTBMV chiếm 40%. Theo tác giả Quyang và

cs, qua nghiên cứu 298 BN UTP di căn não cho thấy UTBMT chiếm 39,3%;

UTBMV chiếm 17,4% . Theo tác giả Davis và cs (2012) thì UTPKTBN chiếm 85%. Cũng theo nghiên cứu của các tác giả này thì UTP gồm nhiều thể

bệnh khác nhau, trong đó loại UTPKTBN hay gặp nhất (80-85%).

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 8 trường hợp có kết quả MBH là

UTPTBN, chiếm 6,5%. Giải thích cho tỷ lệ thấp này, theo chúng tôi vì đặc điểm ác tính và di căn nhanh của UTPTBN, nên bệnh nhân thường đến khám giai đoạn muộn hoặc tử vong trước khi di căn đến não. Kết quả chúng tôi tương tự nghiên cứu Nguyễn Thanh Phương (2013): UTPTBN chiếm 6,7%.

Thấp hơn tác giả Quyang và cs, nghiên cứu 298 BN UTP di căn não, UTP tế

bào nhỏ chiếm 36,9% do cỡ mẫu tác giả lớn ,.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với với nghiên cứu của các tác giả khác là UTBMT chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại mô bệnh học UTP.

4.1.2. Đặc điểm mô bệnh học theo một số yếu tố liên quan về lâm sàng và

xét nghiệm (bảng 3.5) Về giới

Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ nam giới trong nhóm UTPKTBN (75%) thấp hơn ở nhóm UTPKTBN thấp hơn so với ở nhóm UTPTBN (8/8), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,110). Không ghi nhận trường hợp BN nữ nào có mô bệnh học là UTPTBN.

Nhóm tuổi

Theo y văn, người cao tuổi có những đặc điểm sinh lý, bệnh học khác với người trẻ tuổi. Chính vì thế, chúng tôi phân tích một số đặc điểm theo hai nhóm tuổi: dưới 60 và từ 60 trở lên. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về MBH giữa nhóm UTPKTBN và UTPTBN (p=0,548). Phạm Văn Thái (2013) và Trần Đình Thanh (2013) cũng cho rằng không có sự khác biệt về

loại mô bệnh học giữa hai nhóm tuổi này ,.

Tiền sử hút thuốc

Theo bảng 3.5, chúng tôi nhận thấy số BN có tiền sử hút thuốc của nhóm UTPTBN cao hơn so với nhóm UTPKTBN (8/8 so với 61/116), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,008. Tỷ lệ các BN UTBMT có tiền sử hút thuốc là 94,5% (52/55) với các BN không có tiền sử hút thuốc 93,3% (56/60), sự

khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p=0,549. Kết quả này tương tự như kết quả của Phạm Văn Thái (2013) khi nghiên cứu về nhóm UTPKTBN với p=0,481 . Có 1 số nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng người không hút thuốc đa số là UTBMT, ít gặp UTBMV ,.

Về chất chỉ điểm khối u

Khi so sánh 2 nhóm trong nghiên cứu, chúng tôi thấy nhóm UTPKTBN có CEA >5 ng/ml là 76,7% (66/86); trong khi tỷ lệ này ở UTPTBN là 75%

(3/4). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,662. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Xiang (2011) chất chỉ điểm .

Nhóm UTPKTBN có Cyfra 21-1 vượt ngưỡng 3.3 ng/ml thấp hơn nhóm UTPTBN (62/81= 76,5% so với 5/5=100%), sự khác biệt này không có ý

nghĩa thống kê (p=0,277) (bảng 3.5). Kết quả của Phạm Văn Thái (2013) khi nghiên cứu về UTPKTBN di căn não cho thấy: nhóm UTBMT có Cyfra 21-1 vượt ngưỡng 3.3 ng/ml thấp hơn nhóm biểu mô vảy (48,4% so với 64,8%).

Theo nghiên cứu của Xiang và cs (2011), BN có Cyfra 21-1 > 4 ng/ml ở

nhóm UTBMT là 8,6%; trong khi nhóm biểu mô vảy là 79,1% . Về đột biến gen EGFR

Có 90 BN được làm đột biến gen EGFR (72,6%); trong đó 29 BN có đột biến gen này chiếm 32,2%. Các BN có đột biến gen này trong nhóm UTPKTBN là 33%; không có BN nào trong nhóm UTPTBN có đột biến gen này trong nghiên cứu của chúng tôi. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,306). Kết quả này tương tự với các nghiên cứu khác, số BN UTPKTBN có đột biến gen này chiếm 10-30% . UTPTBN chủ yếu gặp đột biến gen PTEN, TP53 và PIK3CA hơn đột biến gen EGFR .

Một phần của tài liệu Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh u não di căn trên cộng hưởng từ 1 5 tesla ở các bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát tại bệnh viện bạch mai (Trang 57 - 63)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(98 trang)
w