Ảnh hưởng của di dân đến phát triển dân số và kinh tế - xã hội

Một phần của tài liệu TÀI LIỆU MÔN DÂN SỐ HỌC CƠ BẢN (Trang 77 - 84)

Chương 4 MỨC CHẾT VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG

5. Ảnh hưởng của di dân đến phát triển dân số và kinh tế - xã hội

Di dân có ảnh hưởng đến quy mô dân số ở cả nơi đi và nơi đến. Ngoài ra, di dân không chỉ ảnh hưởng đến quy mô dân số mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu dân số. Những cơ cấu dân số có thể chịu ảnh hưởng nhiều nhất của di cư là cơ cấu tuổi, cơ cấu giới tính và cơ cấu theo trình độ học vấn. Tác động của di dân đến quy mô và cơ cấu dân số ở cả nơi đi và nơi đến có thể diễn ra như sau:

- Đối với nơi đến: Có thể thấy ngay được rằng di dân đến làm cho quy mô dân số nơi đến tăng lên một cách rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng dân số ở nơi đến tăng lên do ảnh hưởng cả tăng tự nhiên và tăng cơ học. Nhiều nơi, đặc biệt là các thành phố, tỷ suất tăng cơ học dân số còn cao hơn tỷ suất tăng tự nhiên dân số.

Cơ cấu dân số ở nơi đến cũng thay đổi rất đa dạng, phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế và trình độ phát triển của công nghệ ở nơi đến. Đối với những khu công nghiệp đòi hỏi nhiều lao động nam giới thì tỷ lệ nam trong dân số tăng lên. Đối với những nơi sản xuất đòi hỏi lao động có trình độ cao thì tỷ trọng lao động được đào tạo tăng lên. Mặt khác, nếu các ngành công nghiệp nhẹ (may mặc, giày da) du lịch, dịch vụ phát triển thì lại thu hút nhiều lao động nữ.

Tuy nhiên, hiện nay dòng di cư từ nông thôn đến thành thị là chủ yếu và nó mang đặc trưng rất đa dạng. Bên cạnh dòng di cư của người có trình độ cao đến tìm việc làm có thu nhập cao, lại có dòng di cư của người có thu nhập thấp đến thành phố làm những việc mà người có trình độ chuyên môn cao không còn thời gian và sức lực để làm. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, hiện nay ở nước ta di

4 Tổng cục Thống kê, 2005, Điều tra di cư Việt Nam, 2004: Những kết quả chủ yếu, Nhà xuất bản Thống kê. Hà nội 2005.

cư vẫn mang tính chọn lọc theo tuổi, những người trong độ tuổi lao động thường di chuyển nhiều hơn. Vì vậy, cơ cấu dân số ở những nơi là điểm đến của các luồng di cư thường thay đổi theo chiều hướng tỷ lệ người trong độ tuổi tăng lên.

- Đối với nơi đi : Di cư làm cho quy mô dân số nơi đi giảm đi. Hiện nay ở nước ta, một số tỉnh có số người di cư cao, tốc độ tăng trưởng dân số giảm. Tuy nhiên, thành phần chủ yếu làm giảm tốc độ tăng trưởng dân số là do tỷ suất di dân thuần túy mang dấu âm. Lúc này tăng trưởng dân số hoàn toàn phụ thuộc vào tốc độ tăng tự nhiên dân số.

Như đã nêu, theo số liệu của Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 1999, trong khoảng thời gian 5 năm từ năm 1994 đến 1999, ở Tây Nguyên trung bình cứ 1.000 người có 94,67 người mới nhập cư và 19,05 người xuất cư, chênh lệch là 75,62. Tương tự, ở vùng Đông Nam Bộ kết quả tính toán như sau: 80,20 - 27,91 = 52,29 %o. Đây là hai vùng di dân làm tăng dân số. Số tăng tuyệt đối ở Tây Nguyên là 198.469 người (75,62 × 2.624.553/1000) và ở vùng Đông Nam Bộ là 600.860 người (52,29 × 11.490.916/1000).

Tuy nhiên, theo số liệu của Tổng điều tra Đân số và nhà ở năm 2009, trong khoảng thời gian 5 năm từ năm 2004 đến 2009, ở Đông Nam Bộ trung bình cứ 1000 người có 135,4 người mới nhập cư và 27,7 người xuất cư, chênh lệch là 107,7. Tương tự, ở Tây Nguyên kết quả tính toán như sau: 43,3 – 32,1 = 11,2 phần nghìn. Đây là hai vùng di dân làm tăng dân số. Số tăng tuyệt đối ở vùng Đông Nam Bộ là 1.510.534 người (107,7 × 14.025.387/1000) và ở Tây Nguyên là 57.203 người (11,2 × 5.107.437/1000). Như vậy, dòng di cư đã thay đổi giữa hai cuộc điều tra. Nếu trong thời gian từ 1994 đến 1999 người dân di cư nhiều đến Tây Nguyên là để tìm đất đai canh tác, thì này người dân di chuyển nhiều đến vùng Đông Nam bộ là vùng có nhiều khu công nghiệp phát triển.

Mặt khác, trong những trường hợp, mặc dù số lượng di dân thuần tuý có thể không lớn, nhưng nếu số xuất cư và nhập cư lớn, chắc chắn chất lượng dân số có sự thay đổi, bởi vì sự hiện diện của những người mới đến sẽ mang trong mình các đặc trưng văn hoá, trình độ chuyên môn, tay nghề, tính cách khác với những người dân đang sinh sống tại chỗ. Ví dụ, theo số liệu di dân giữa các tỉnh trong Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009 cho thấy một số tỉnh có tỷ suất nhập cư và xuất cư đều lớn, thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất di dân tổng, nhưng tỷ suất di dân thuần tuý lại thấp, điều đó phản ánh chênh lệch di dân không đáng kể. Có thể thấy sự tương phản về tỷ suất nhập cư, tỷ suất xuất cư giữa các tỉnh trong bảng 7.4.

Trong bảng 7.4 nơi có tỷ suất di cư thuần túy cao nhất là Bình Dương (341,7%o). Đây là tỉnh có chênh lệch di cư dương cao nhất cả nước. Tỉnh có tỷ suất di dân thuần túy âm cao nhất cả nước là Thanh Hóa (-65,2%o). Trong hai thành phố lớn nhất cả nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì thành phố Hồ Chí Minh là nơi có tỷ suất di dân thuần túy lớn hơn, cao gấp hơn 2 lần so với Hà Nội.

Bảng 7.4: Tổng tỷ suất di dân và tỷ suất di dân thuần tuý

của một số tỉnh/thành phố theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 1/4/2009 (đơn vị tính: %0)

Tỉnh

Tỷ suất

nhập cư Tỷ suất xuất cư

Tỷ suất di dân tổng

Tỷ suất di dân thuần tuý

(1) (2) (3)=(1)+(2) (4)=(1)-(2)

1. Hà Nội 65,3 15,5 80,8 49,8

2. Cao Bằng 18,1 31,8 49,9 -13,1

3. Lai Châu 48,8 15,3 64,1 33,6

4. Quảng Ninh 28,5 24,3 52,8 4,2

5. Nam Định 11,2 62,9 74,1 -51,6

2.Thanh Hóa 6,3 71,5 77,8 -65,2

3.Nghệ An 10,6 52,7 63,3 -41,1

4.Thừa Thiên Huế 27,0 45,3 72,3 -18,4

5.Đà Nẵng 100,6 22,7 123,3 77,9

10. Khánh Hoà 20,7 27,7 48,4 -7

11. Phú Yên 10,1 35,7 45,8 25,7

12. Bình Dương 365,9 24,1 390 341,7

13. TP Hồ Chí Minh 136,7 20,7 157,4 116,0

14. Trà Vinh 11,7 66,7 78,4 -55,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra Dân số: 53 chỉ tiêu công bố ngày 31/12/2009.

Cơ cấu tuổi của dân số cũng chịu ảnh hưởng của di dân. Tỷ lệ giới tính của các độ tuổi khác nhau trong dân số có thể có các chênh lệch tuỳ thuộc vào cường độ và tính chất chọn lọc của di dân. Số liệu Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy người di cư thường là những người ở độ tuổi trẻ, tập trung nhiều vào nhóm 15-29.

Cơ cấu giới tính của dân số cũng chịu ảnh hưởng của xu thế nữ hóa các dòng di dân. Ở các khu vực thành thị, tỷ số giới tính trong nhóm tuổi 15-29 của nơi đi thì tăng lên còn của nơi đến thì giảm đi. Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009, xu hướng nữ hóa chiếm ưu thế rất mạnh ở luồng di dân trong nội bộ huyện và giảm dần ở những luồng di dân có khoảng cách xa.

Hình 7.1: Tính chọn lọc theo tuổi của dân số di cư 2009

Do ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu dân số, di dân gián tiếp tác động đến các chỉ tiêu dân số học, trong đó trước hết phải kể đến sinh, chết và hôn nhân. Thái độ, hành vi, thói quen, phong tục tập quán của con người không thể thay đổi ngay sau khi di dân, mà sẽ được mang theo, duy trì ở nơi mới và phát huy tác dụng trong một thời gian.

5.2. Ảnh hưởng của di dân đến phát triển kinh tế-xã hội

Như đã nêu, di dân mang bản chất kinh tế xã hội sâu sắc.Trong điều kiện bình thường người ta di cư vì các nguyên nhân kinh tế và xã hội là chủ yếu. Do đó, động cơ di dân đã và đang là vấn đề được các nhà nghiên cứu dân số và xã hội học quan tâm. Di dân tác động đến kinh tế-xã hội ở cả nơi đến và nơi đi.

- Đối với nơi đến:

Di cư trong huy?n (Trung v?=26)

5.0 3.8 9.2

26.3 23.7 10.8 6.3 4.2 3.4 2.6 1.5 0.9 0.7 0.6 0.4

9.2 7.2 7.8 10.4 16.2

15.2 11.0

7.3 5.5

4.0 2.3 1.3 0.9

0.60.5 0.5 0.7

40 20 0 20 40

5-9 10-14 15-19 20-24 25-29 30-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60-64 65-69 70-74 75-79 80 +

Di cư gi?a các t?nh (Trung v?=24)

2.5 2.2

19.7 18.5 7.5 4.5 3.1 2.4 1.8 1.3 0.7 0.5 0.3 0.3

3.3 2.8 16.1 30.3

20.0 10.4

6.3 3.8

2.7 1.8 1.0

0.2

34.5 0.6

0.3 0.2 0.2 0.2

40 20 0 20 40

Di cư trong huyện Trung vị = 26

Di cư giữa các huyện Trung vị = 25

Di cư giữa các tỉnh

Trung vị = 24 Không di cư

Trung vị = 30

Nữ

Ảnh hưởng của người di cư đến phát triển kinh tế rất rõ rệt, có thể kể tên cụ thể như sau:

+ Tác động tích cực:

- Góp phần phát triển kinh tế-xã hội làm tăng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nơi đến đặc biệt là các thành phố.

- Lao động di cư là nguồn cung cấp nguồn nhân lực cho các công việc lao động giản đơn, đặc biệt ở các ngành nặng nhọc, thu nhập thấp và nguy hiểm mà người dân nơi đến, đặc biệt thành phố không làm.

- Góp phần thúc đẩy phát triển ngành nghề dịch vụ, làm cho các dịch vụ đến gần dân hơn, tiện lợi hơn (đưa gas, đưa gạo, đưa nước tinh khiết, đưa cơm hộp, rửa xe máy, ô tô...).

- Góp phần điều tiết giá cả lao động trên thị trường lao động. Nếu không có người di cư đến, tại Hà Nội nói riêng và các thành phố lớn nói chung, thiếu lao động làm việc trong các ngành xây dựng, may… Người thành phố, sẽ yêu cầu giá cả cao hơn rất nhiều nếu họ chấp nhận làm những việc nêu trên. Khác với người dân sở tại, người di cư có thể làm bất cứ việc gì không trái pháp luật bằng sức lao động của mình miễn là họ thấy có được thu nhập phù hợp.

+ Tác động tiêu cực:

- Gia tăng dân số cơ học nhanh, đặc biệt là ở những nơi đô thị hóa nhanh đã làm cho cơ sở hạ tầng trở lên quá tải. Các điều kiện về cơ sở hạ tầng như nhà ở, trường học, bệnh viện, điện, nước, đường phố, vệ sinh môi trường và các điều kiện khác hiện chưa thể đáp ứng được tốt so với số dân thực tế đang sống tại thành phố.

- Người di cư chưa có thói quen bảo vệ môi trường, đặc biệt là những người đang sống ở nông thôn di chuyển ra các đô thị như bỏ rác vào sọt rác và không chú ý đến vệ sinh đường phố, tổ dân phố nơi họ đang thuê nhà trọ để sinh sống. Vì vậy, họ làm ảnh hưởng xấu đến vệ sinh đường phố và môi trường đô thị. Mặt khác, với tâm lý mình chỉ là người “ăn nhờ ở đậu”, làm việc vất vả mà thu nhập cũng không cao so với người sở tại, người di cư thường không tham gia gia vào các hoạt động cộng đồng. Khi xa gia đình, tình cảm thiếu thốn lại không chịu sự giám sát của gia đình nên có thể trong tình cảm với người khác giới họ dễ dàng có tình yêu và trong quan hệ tình cảm nhiều lúc cũng vượt quá giới hạn cho phép theo chuẩn mực xã hội, văn hoá. Những điều đó tạo ra thái độ thiếu thiện cảm của người dân sở tại đối với người di cư.

Một đặc điểm của người di cư, đặc biệt là người di cư làm việc ở khu vực phi chính thức là hay thay đổi chỗ làm việc và hay thay đổi chỗ ở. Vì vậy, mặc dù luật cư trú năm 2006 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người di cư trong việc

đăng ký tạm trú. Nhưng số người không đăng ký tạm trú rất nhiều. Điều này gây khó khăn cho công an trong việc quản lý trật tự trị an.

- Số lượng người di cư đến các thành phố lớn, đặc biệt đa số họ là những người trình độ học vấn thấp, chưa qua đào tạo nghề nghiệp. Vì vậy, rất nhiều người di cư không có công việc làm ổn đinh, thu nhập thấp. Một thực tế đã được công an tại các địa bàn nơi đến thừa nhận, thì người di cư ồ ạt đến các thành phố cũng góp phần làm tệ nạn trộm cắp gia tăng. Theo nhận định của lãnh đạo công an ở các quận/huyện khảo sát thì khoảng 33% những người bị coi là tội phạm là người tỉnh ngoài đến Hà Nội. Đại bộ phận trong số họ là thanh niên.

- Người di cư vừa là người gây ra các tệ nạn xã hội, nhưng họ cũng là nạn nhân của các tệ nạn xã hội.

+ Các khó khăn mà người di cư thường gặp phải ở nơi đến:

Người di cư, nhất là di cư tự do từ nông thôn đến thành thị thường gặp rất nhiều khó khăn, các khó khăn đó thường là:

- Thứ nhất là không tìm được việc làm phù hợp với sở thích và trình độ.

Thông thường những người di cư từ nông thôn đến thành phố, công việc đầu tiên là làm tại khu vực phi chính thức với mức thu nhập rất thấp. Họ buộc phải chấp nhận làm những việc không phù hợp với nguyện vọng để có thể sống qua ngày mong tìm cơ hội kiếm được việc làm phù hợp và có mức thu nhập cao hơn. Nhiều người trong số họ đã không bao giờ kiếm được việc làm phù hợp với mong muốn.

- Thứ hai là tìm nơi ở. Hiện tại, trong các thành phố lớn giá nhà ở thường cao, nên người di cư, nhất là di cư mới từ nông thôn đến thành thị phải chấp nhận ở trong những ngôi nhà trật hẹp tồi tàn và xa chỗ làm việc. Việc tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục cũng bị hạn chế.

- Thứ ba là họ có thể bị lạm dụng, bị đối xử không công bằng trong công việc. Giờ làm của họ thường dài hơn 10 tiếng một ngày với mức lương thấp, không có bảo hiểm xã hội, không có bảo hiểm y tế, không có ngày nghỉ lễ và chủ nhật.

- Thứ tư là có thể bị đối xử không công bằng ở nơi sinh sống, bị người bản xứ bắt nạt, cướp giật và đôi khi còn bị chủ sử dụng lao động hành hạ đánh đập.

- Người di cư là người sống xa gia đình, thiếu thốn tình cảm, họ dễ dàng chấp nhận quan hệ tình dục không an toàn, ngay cả khi quan hệ tình dục với những người có nguy cơ cao về các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nhiều người trong số họ đã có thai ngoài ý muốn và mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có cả HIV/AIDS.

- Đối với nơi đi:

+ Tác động tích cực:

- Góp phần phát triển kinh tế gia đình ở địa phương nơi đi qua đó làm thay đổi bộ mặt làng quê ở nơi đi. Tác động tích cực của người di cư đối với gia đình và địa phương nơi đi được đánh giá qua số tiền gửi về gia đình, sử dụng tiền gửi của gia đình vào phát triển kinh tế, giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và đầu tư phát triển kinh tế ở địa phương.

- Góp phần phát triển kinh tế ở địa phương, người di cư còn góp phần phát triển kinh tế ở địa phương thông qua việc người di cư có thu nhập cao đầu tư về phát triển ngành nghề ở địa phương. Nhiều người di cư đã học được kinh nghiệm sản xuất ở nơi đến, khi trở về quê họ mở ngành nghề mới thu hút lao động địa phương qua đó cải thiện đời sống cho người lao động ở quê nhà.

+Tác động tiêu cực:

- Thiếu lao động tại địa phương nơi đi.

Khi người di cư tìm việc làm một cách ồ ạt, do đặc trưng chủ yếu của người di cư là những người trong độ tuổi lao động, nên ở lại nông thôn chỉ còn phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ và những người đã hết tuổi lao động, sức yếu không thể đi làm ngoại tỉnh. Điều này làm cho những người cao tuổi phải vất vả thêm, phải làm cả việc đồng áng mà đáng lẽ đến tuổi nghỉ hưu (trên 60 tuổi) họ không còn phải làm nữa. Thậm chí có người đã đến 70 tuổi rồi vẫn còn phải làm việc trên đồng ruộng. Một số gia đình do những người trong độ tuổi lao động di cư tìm việc làm nơi khác, nên trẻ em dưới 14 tuổi đã phải thay thế cha mẹ làm việc.

- Một số lối sống đô thị không phù hợp với truyền thống đã du nhập vào cuộc sống hàng ngày ở nơi đi.

Những nét văn hoá lối sống của đô thị không phù hợp với truyền thống ở nông thôn đã được thanh niên di cư mang về như nhuộm tóc màu, trang phục kiểu lố lăng. Điều này làm cho những người quen sống ở nông thôn khó chịu và cho là làm mất thuần phong mỹ tục ở nông thôn. Ngay cả cha mẹ của thanh niên di cư cũng không chấp nhận lối sống đó nên thường xảy ra mẫu thuẫn trong gia đình giữa hai thế hệ.

Một tác động tiêu cực nữa cần phải kể đến, là một số nữ thanh niên đã có quan hệ tình dục tiền hôn nhân và mang thai ngoài giá thú. Số nữ thanh niên này quay về quê cũ tìm sự giúp đỡ của gia đình. Làm cho gia đình ở nơi đi không chỉ chịu thiệt thòi về kinh tế mà còn là gánh nặng tâm lý đối với họ, trước những dị nghị của những người xung quanh.

Nhiều thanh niên di cư mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS tạo ra gánh nặng về chăm sóc về y tế, về tinh thần cho gia đình.

Nhiều trẻ em đã chịu những cú sốc tâm lý khi cha mẹ chúng di cư tìm việc làm ở nơi khác không thể chăm sóc chúng hàng ngày. Các biểu hiện cụ thể là: Kết

Một phần của tài liệu TÀI LIỆU MÔN DÂN SỐ HỌC CƠ BẢN (Trang 77 - 84)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(103 trang)
w