Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo công tác xã hội hoá giáo dục từ năm 1996 đến năm 2000

Một phần của tài liệu công tác xã hội hóa giáo dục của đảng bộ hà tây từ năm 1996 2008 (Trang 32 - 54)

1.2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo xây dựng một xã hội học tập:

Tư tưởng chỉ đạo của Đảng bộ là coi GD- ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, đó là một giải pháp quan trọng để phát triển giáo dục. Một trong những chủ trương đó của ngành giáo dục là đẩy mạnh XHHGD, bằng con đường Đại hội giáo dục các cấp. Sau quá trình nghiên cứu, chỉ đạo thí điểm thành công, ngày 10/10/1990 Bộ GD& ĐT và Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã ban hành Thông tƣ liên tịch số 35/TT- LT chỉ đạo các cơ quan quản lý giáo dục và công đoàn giáo dục các cấp tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương mở Đại hội giáo dục nhằm huy động các lực lƣợng xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, phát triển giáo dục, ban hành các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy nhiệm vụ XHHGD, khuyến khích các hình thức học tập cộng đồng tại thôn, xã. Mô hình kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội, tạo môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, thực hiện công bằng trong giáo dục. Tạo điều kiện để mọi người được học, học thường xuyên, học suốt đời.

Thực hiện tốt cuộc vận động XHHGD để mọi tổ chức, mọi người trong Tỉnh đều chăm lo cho sự nghiệp GD- ĐT. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành, mọi người nghèo được giúp đỡ để học tập, người giỏi đựơc phát triển tài năng, từng bước xây dựng xã hội học tập, chú trọng xây dựng trường chuẩn quốc gia ở các bậc học, ngành học, củng cố và tăng cường hoạt động của HĐGD và HKH các cấp. Công tác XHHGD thể hiện thông qua ĐHGD các cấp.

Để làm đƣợc điều đó Đảng bộ Hà Tây đã đẩy mạnh xây dựng một xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội học tập suốt đời, góp phần nâng cao trình độ phổ cập giáo dục phổ thông, tạo điều kiện cho việc nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, tri thức và khả năng thích ứng với thị trường lao động. Thực hiện XHHGD nhằm phát huy tiềm năng về trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, đồng thời tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tƣợng chính sách, người nghèo được hưởng thụ thành quả giáo dục ngày càng cao.

UBND Tỉnh đã tập trung chỉ đạo làm chuyển biến mạnh mẽ công tác XHHGD. Đồng thời UBND tỉnh đã ra Quyết định 649/QĐ-UB thực hiện chế độ miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác cho người nghèo đi học. Nhằm xây dựng một xã hội học tập, tạo điều kiện để ai cũng có thể học tập, Tỉnh đã có chính sách khuyến khích học sinh giỏi, tạo điều kiện học tập cho con em các gia đình nghèo và con em đồng bào ở vùng nông thôn, vùng núi, phấn đấu đến năm 2000 đạt phổ cập THCS. Phấn đấu đến năm 2010 có ít nhất 80% số xã có TTHTCĐ.

Thực hiện chủ trương của Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Chính Phủ), Tỉnh chủ trương mở ĐHGD các cấp sớm đã được quán triệt trong các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân, đồng thời lại đƣợc chính các đồng chí Bí thƣ Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND, UBND các cấp chỉ đạo. Do đó, hầu hết các huyện, thành, thị đều có văn bản của các cấp uỷ Đảng, HĐND, UBND, các xã, phường để tổ chức ĐHGD. Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ và các

huyện uỷ đã chủ động, trực tiếp cùng các cơ quan giáo dục chỉ đạo ĐHGD đến từng huyện, xã, phường. ĐHGD các cấp đã đề ra những nội dung thiết thực, phù hợp với thực trạng giáo dục và điều kiện kinh tế- xã hội của từng địa phương. ĐHGD các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở đã phát huy trí tuệ, tình cảm của mọi gia đình, mọi thành viên trong xã hội chăm lo cho thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho mọi người dân được biết, được bàn, được làm, được hưởng thụ và được kiểm tra về GD-ĐT. Từ đó cùng nhau đoàn kết xây dựng một cơ chế hợp lý, thống nhất để cùng làm giáo dục dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, chính quyền địa phương.

XHHGD nói chung, ĐHGD các cấp nói riêng đã giúp cho việc tuyên truyền, quán triệt các quan điểm đổi mới GD&ĐT của Đảng đến từng gia đình, ngay tại các cơ sở xã, phường, thị trấn, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, lợi ích của GD&ĐT trong nhân dân. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện XHHGD, nhiều cấp uỷ Đảng, HĐND, UBND đã thực sự coi giáo dục là một bộ phận trọng yếu trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương; nên đã thường xuyên đưa công tác XHHGD vào các chương trình hội nghị, giao ban của cấp mình. Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội và vai trò của GD&ĐT đối với sự phát triển của đất nước, của địa phương, của mỗi dòng họ, gia đình và mỗi người dân.

Thông qua ĐHGD, toàn ngành đã làm chuyển biến các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, các cấp quản lý giáo dục, có nhận thức sâu sắc về XHHGD, coi đây là một việc có tính chiến lƣợc tác động toàn diện và mạnh mẽ tới sự phát triển giáo dục đào tạo của tỉnh nhà.

Tỉnh tiến hành ĐHGD& thành lập HĐGD cấp tỉnh từ 1997, sớm nhất trong toàn quốc. Đến nay có 100% huyện, thị xã, phường đều thành lập HĐGD và tiến hành ĐHGD lần 2, lần 3. Từ năm 1995-1996 HĐGD tiến hành họp 2 lần vào đầu năm học và đầu kỳ hai hàng năm. Tỉnh Hà Tây là một trong những tỉnh có tỷ lệ cao nhất toàn quốc về mở ĐHGD, (Theo Thông tƣ liên tịch số 09 ngày 16/5/1992 của Bộ giáo dục và đào tạo và

Công đoàn giáo dục Việt Nam) đƣa Hà Tây trở thành một trong những tỉnh đầu tiên tổ chức ĐHGD cấp tỉnh. Tỉnh thực hiện công tác XHHGD phát triển mạnh mẽ và triển khai rộng rãi tới các cấp, ngành, các đoàn thể xã hội và nhân dân. Thể hiện là sự phân cấp trách nhiệm của các cấp, ngành, các thành viên tham gia HĐGD trong việc tham gia quản lý và tăng nguồn lực cho giáo dục. Nhiều địa phương đã vận dụng quyết định của tỉnh công khai, dân chủ, bàn bạc với dân để xây dựng trường lớp.

Thông qua việc tổ chức ĐHGD và hoạt động của HĐGD các cấp đã góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tầng lớp nhân dân trong Tỉnh về GD-ĐT. Chủ trương coi “GD-ĐT là quốc sách hàng đầu” của Đảng đã đƣợc thấm nhuần trong nhân dân và tự giác thực hiện, là nền tảng vững chắc để phát triển sự nghiệp GD-ĐT của Tỉnh.Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội đã đƣa việc thực hiện các chương trình, mục tiêu giáo dục vào Nghị quyết, kế hoạch công tác của mình, coi đó là nhiệm vụ, là tiêu chí đánh giá cá nhân và đơn vị. Công tác XHHGD đã xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục, quỹ khuyến học để động viên, khen thưởng giáo viên giỏi, học sinh giỏi, các cháu học sinh khuyết tật, các cháu có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập.

Năm 1997, Tỉnh đã chỉ đạo thành lập các HĐGD từ cấp xã đến cấp Tỉnh để tiến hành công tác XHHGD.Với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. HĐGD các cấp đã tích cực xây dựng quỹ khuyến học. Trung bình quỹ ở HĐGD huyện có 200 triệu, các cấp cơ sở có từ 10 đến 15 triệu.

Thực hiện Chỉ thị 29/1999 của Thủ tướng Chính Phủ về việc phát huy vai trò của HKH Việt Nam trong sự nghiệp giáo dục, Tỉnh uỷ có Thông tri số 27-TTr/TU ngày 22/6/2000 “Về việc thành lập tổ chức HKH các cấp

Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đưa trẻ đến trường” do Bộ GD&ĐT phát động nhằm từng bước thực hiện luật phổ cập giáo dục Tiểu học. Công bằng xã hội trong giáo dục đã đƣợc cải thiện, đặc biệt đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình nghèo, các đối tượng

bị thiệt thòi ngày càng đƣợc quan tâm. Về cơ bản Tỉnh đã đạt đƣợc sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục phổ thông. Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển.

Đã thành nề nếp hàng năm, ngày 1- 6 tuyên dương khen thưởng học sinh giỏi, ngày 20- 11 tuyên dương khen thưởng giáo viên. Công tác thi đua khen thưởng đã bước đầu xã hội hoá, thể hiện: Cơ quan nào cũng tổ chức khen thưởng học sinh giỏi là con em cán bộ đơn vị mình; địa phương nào cũng tổ chức khen thưởng thầy giáo giỏi và thầy giáo có học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp Quốc gia với mức từ 100.000 đến 1 triệu đồng.

HKH Tỉnh đặc biệt coi trọng xây dựng phong trào gia đình hiếu học, gắn chặt với dòng họ, khu phố, làng khuyến học.Từ nhiều năm nay, Hội đã thưởng và trao bảng vàng khuyến học cho các gia đình hiếu học. Nhân dịp đại hội các gia đình hiếu học từ cơ sở đến các huyện, thành phố, đƣợc Hội thưởng trên 30 triệu đồng, cho các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vượt lên học giỏi hàng năm. Nhờ vậy, tỷ lệ người đi học so với số dân đạt gần 28%

tổng dân số trong Tỉnh, là Tỉnh có tỷ lệ số người đi học cao trong cả nước.

1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện đa dạng hoá các loại hình giáo dục:

Để thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác XHHGD. Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn năm 1996- 2000 và có những chỉ đạo cụ thể để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã chủ trương giữ gìn vai trò nòng cốt của các trường công lập, đi đôi với đa dạng hoá các loại hình GD&ĐT. Phát triển các trường bán công, dân lập ở nơi có điều kiện. Từng bước mở các trường tƣ thục ở một số bậc học: Mầm non, THPT, Trung học chuyên nghiệp, Dạy nghề. Mở rộng hình thức đào tạo không tập chung: Đào tạo tại chức, đào tạo từ xa theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, từng bước hiện đại hoá hình thức giáo dục. Khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước bằng hình thức phù hợp

với quy hoạch phát triển, yêu cầu, đặc điểm giáo dục ở từng vùng, miền.

Chuyển các cơ sở giáo dục công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính; thực hiện hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối thu chi, thường xuyên nâng cao hiệu quả và chất lƣợng giáo dục; đảm bảo quyền lợi và cơ hội tiếp cận bình đẳng của người học.

Củng cố các ngành học, cấp học hiện có, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, nâng cao phẩm chất năng lực của giáo viên và chất lƣợng giáo dục toàn diện của học sinh, giữ vững và nâng cao chất lượng các trường chuyên, lớp chọn, có biện pháp đồng bộ để giảm số học sinh bỏ học nhất là ở cấp THCS. Toàn tỉnh hoàn thành phổ cập cấp THCS tiến tới đa dạng hoá hình thức học cấp 2 để đạt phổ cập THPT. Mở rộng dạy nghề trong các trường trung học, phát triển cấp 3, tổ chức học tin học, ngoại ngữ để tăng cường giao lưu quốc tế. Mở rộng các cơ sở dạy nghề bằng mọi hình thức, đáp ứng yêu cầu về nhân lực và kỹ thuật.

UBND tỉnh Hà Tây đã chỉ đạo thành lập ở mỗi xã, phường một trường mầm non do UBND xã quản lý. UBND xã chịu trách nhiệm xây dựng CSVC và chăm lo những trang thiết bị trọng yếu. Sở GD-ĐT đã có trách nhiệm hướng dẫn việc thành lập trường mầm non ở tất cả các xã, phường trên phạm vi toàn Tỉnh. Theo Chỉ Thị mỗi xã, phường có ít nhất một trường mầm non và 2 biên chế nhà nước làm công tác quản lý. Nhờ vậy, giáo dục mầm non được duy trì phát triển các trường, lớp tư thục, dân lập được phát triển dưới nhiều dạng phong phú, nhất là các nhóm trẻ gia đình.

Năm 1996 Về GDMN, trong Tỉnh khắc phục ngay tình trạng xã trắng về giáo dục mầm non, số cháu ra nhà trẻ, đến trường mẫu giáo vượt quy định theo vùng tại Quyết định 161/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ; chất lƣợng chăm sóc trẻ em phải đƣợc nâng cao về mặt chất lƣợng. Hầu hết các cơ sở giáo dục mầm non đều nghiên cứu thực hiện chương trình giáo dục do Bộ GD-ĐT ban hành, thông qua việc tổ chức các chuyên đề và những hội

thi. Qua kết quả khảo sát đánh giá trẻ 5 tuổi Sở GD-ĐT đã động viên, chỉ đạo các trường, các cơ sở mầm non cải tiến phương pháp chăm sóc, giáo dục các cháu, tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình, phát triển việc tuyên truyền phương pháp giáo dục trẻ em theo khoá học cho các bậc phụ huynh ông bà, cha mẹ.

Năm 1997, mạng lưới trường học mầm non phát triển rộng khắp trong Tỉnh. Toàn Tỉnh có 347 trường công lập, bán công, dân lập, tư thục tăng 74 trường so với năm ngoái.

Tỉnh chỉ đạo lập lại trật tự kỷ cương trong GD&ĐT, không tổ chức lớp chọn ở các cấp học, không tổ chức trường chuyên ở bậc Tiểu học và THCS, cấm dạy thêm tràn lan, quy định các khoản thu phí.

Năm 1992, toàn Tỉnh có 305 trường tiểu học, đến năm 2002 có 350 trường, bình quân tăng 0,6%/năm. Mỗi xã, phường trong tỉnh đều có ít nhất 1 trường tiểu học, một số nơi ở mỗi cụm dân cư có 1 cụm lớp học, đảm bảo thuận tiện cho học sinh đi học. Nhìn chung, việc đa dạng hoá các loại hình giáo dục ở hệ tiểu học còn hạn chế. Toàn tỉnh mới có 1 trường tiểu học dân lập với quy mô còn rất nhỏ. Quá trình đa dạng hoá các loại hình trường lớp ở cấp tiểu học của Tỉnh còn diễn ra chậm, chƣa phát triển. Nguyên nhân là do số trường công lập đã đáp ứng đủ nhu cầu học tập của con em nhân dân trong tỉnh và số lượng học sinh hàng năm không tăng mà có xu hướng giảm do thực hiện kế hoạch hoá gia đình. Số học sinh từ năm 1991 đến năm 2001 giảm 39,792 học sinh (khoảng 4000 học sinh/năm), nhịp độ giảm bình quân số học sinh vào giai đoạn 1996-2000 là 2,4%.

Hệ thống các trường THCS đã đảm bảo nhu cầu học tập của con em nhân dân trong Tỉnh. Mỗi xã, phường trong Tỉnh đều có ít nhất một trường THCS, hầu hết là các trường công lập, số trường THCS tăng đều hàng năm, nhưng ở mức thấp. Năm 1992 có 318 trường đến năm 2001 có 328 trường, nhƣ vậy trung bình hàng năm tăng 0,31%, tức là trung bình mỗi năm có một trường THCS mới.

Từ năm 1999, ngành giáo dục Tỉnh bắt đầu thí điểm tuyển sinh hệ bán công tại 14 trường THCS chất lượng cao trong Tỉnh, song việc đa dạng hoá các loại hình trường lớp còn chậm. Toàn Tỉnh chỉ có một trường dân lập liên cấp 2-3, với quy mô còn rất nhỏ, trường chỉ có 4 lớp với 113 học sinh và số lƣợng học sinh không tăng qua 2 năm học 2000-2001. Sau khi bắt đầu thí điểm tuyển sinh hệ bán công vào năm 1999 thì đến năm 2001 đã có 44 lớp, với 2244 học sinh. Số lượng và quy mô trường bán công còn hạn chế, năm 2001 số lớp bán công chỉ bằng 0,86% số lớp công lập và chỉ thu hút đƣợc 1,06 tổng số học sinh THCS toàn Tỉnh.Tuy nhiên so với năm 2000 số lớp đã tăng 120%, và số học sinh tăng 136%.{84, Tr.2}.

Nhìn chung, công tác thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường lớp THCS bước đầu đã có kết quả tốt, phát triển nhanh về số lớp cũng như số học sinh. Tuy nhiên các quy mô của loại hình bán công, dân lập còn nhỏ bé, chỉ có lớp bán công chứ chưa có trường bán công, cơ sở vật chất của loại hình bán công chủ yếu vẫn là của các trường công lập.

Năm 2000 toàn Tỉnh có 58 trường THPT, mỗi huyện, thị xã đều có ít nhất 2 trường, so với năm 1997 tăng 17 trường. Việc đa dạng hoá các hình thức giáo dục đối với bậc THPT đã bước đầu có kết quả, tỷ lệ trường bán công, dân lập chiếm 19%. Từ năm 1999 đến năm 2000 có thêm 2 trường bán công mới, tăng 33,3% so với năm trước.

Nhìn chung, quá trình đa dạng hoá các loại hình trường lớp ở cấp THPT phát triển khá mạnh mẽ cả về quy mô, tốc độ và chất lƣợng. Các trường, lớp bán công này đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp giáo dục của Tỉnh trong những năm qua. Hàng năm thu hút hàng chục nghìn học sinh, góp phần làm giảm sự quá tải cho các trường công lập. Tuy nhiên, các trường dân lập quy mô còn nhỏ, mới chỉ có 3 trường với 17 lớp học, các trường dân lập này chưa thu hút được nhiều học sinh (ở cả 3 lớp chỉ thu hút được 885 học sinh), các trường bán công vẫn chưa tách được cơ sở vật chất ra khỏi trường công lập.

Một phần của tài liệu công tác xã hội hóa giáo dục của đảng bộ hà tây từ năm 1996 2008 (Trang 32 - 54)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(131 trang)