Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo dục từ năm 2001 đến năm 2008

Một phần của tài liệu công tác xã hội hóa giáo dục của đảng bộ hà tây từ năm 1996 2008 (Trang 54 - 88)

GIÁO DỤC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2008

2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo dục từ năm 2001 đến năm 2008

2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo dục từ năm 2001 đến năm 2008

2.1.1. Đặc điểm và yêu cầu mới về công tác xã hội hoá giáo dục

* Đặc điểm về công tác xã hội hoá giáo dục:

Đến nay, quy mô mạng lưới trường lớp chỉ đảm bảo điều kiện thực hiện nhiệm vụ phổ cập GDTH đúng độ tuổi, GDTHCS mà chƣa đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ Phổ cập giáo dục THPT và xây dựng trường chuẩn Quốc gia. Quy mô trường lớp bất hợp lý về cơ cấu trường THPT. Tỷ lệ các trường THPT ngoài công lập còn rất thấp. Tình trạng quá tải cả về số lớp/

trường; số học sinh/ lớp trong các trường công lập. Hệ thống các trung tâm KTTH-HN; các trường dạy nghề còn ít; chưa gắn được giữa đào tạo và sử dụng. Thiếu các trường nghề và trung học chuyên nghiệp, chưa phân luồng tốt học sinh học xong THCS, THPT.

Hệ thống mạng lưới trường lớp Tiểu học, THCS có quy mô đủ đáp ứng nhu cầu học tập, địa bàn dân cƣ tập trung, hoàn thành tốt công tác PCGDTH đúng độ tuổi và PCTHCS. Nhân dân có truyền thống hiếu học nên Hà Tây luôn là tỉnh đi đầu trong công tác này. Tuy nhiên chất lƣợng phổ cập đạt chƣa vững chắc. Một số xã chỉ đạt mức xấp xỉ so với tiêu chuẩn. Cá biệt có xã năm trước đạt nhưng năm sau lại không đạt được. Đây là một vấn đề cần đƣợc các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm mới duy trì và giữ vững đƣợc thành quả phổ cập giáo dục của tỉnh.

Chất lƣợng toàn diện của học sinh đại trà còn tình trạng lệch lạc. Một số nơi do điều kiện kinh tế, điều kiện CSVC chƣa tốt dẫn đến chất lƣợng cơ bản của học sinh còn thấp. Chất lượng giáo dục hướng nghiệp dạy nghề phổ

thông chƣa đạt hiệu quả cao mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu giáo viên dạy nghề.

Tỷ lệ giáo viên hợp đồng còn cao. Ở cấp Tiểu học chiếm trên 19%, cấp THCS chiếm gần 18%, cấp THPT chiếm trên 10%. Mức lương hiện tại trả cho giáo viên hợp đồng còn thấp, chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non ngoài công lập còn chưa đảm bảo, ảnh hưởng nhiều chất lượng giảng dạy và chất lƣợng giáo dục nói chung. Đội ngũ giáo viên vừa thừa vừa thiếu. Đối với cấp tiểu học thừa giáo viên dạy văn hoá nhƣng thiếu giáo viên dạy các môn năng khiếu. Toàn tỉnh thừa trên 2000 giáo viên Tiểu học nhƣng còn thiếu giáo viên dạy Nhạc-Hoạ- Mỹ thuật (Giáo viên Nhạc: Tiểu học thiếu 91; THCS thiếu 85. Giáo viên Hoạ: Tiểu học thiếu 91, THCS thiếu 75). Đối với cấp THPT còn thiếu giáo viên các bộ môn: Toán, Lý, KTCN và đặc biệt là giáo viên Tin học- thiếu nguồn giáo viên đƣợc đào tạo cơ bản.

Công tác bồi dƣỡng và tự bồi dƣỡng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý và tư tưởng chính trị hiệu quả chưa cao. Một bộ phận nhỏ (0,6% đối với THPT; 2% đối với Tiểu học, THCS) giáo viên có trình độ chƣa đạt chuẩn, không đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới giáo dục cần có chính sách giải quyết cho số giáo viên này thôi đứng lớp hoặc bố trí công tác khác, hoặc nghỉ hưu trước tuổi.

Nhiều trường CSVC còn thiếu và yếu, nhất là các trường Mầm non, Tiểu học, tình trạng thiếu phòng thí nghiệm, phòng bộ môn và phòng tập đa năng ở THCS và THPT. CSVC trường học của Hà Tây so với tiêu chuẩn các trường học hiện nay còn yếu.

Công tác quản lý giáo dục đã đƣợc chú ý và đạt đƣợc một số kết quả nhất định. Tuy nhiên so với yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục hiện nay thì công tác quản lý của ngành còn nhiều hạn chế. Việc đổi mới trong công tác quản lý giáo dục còn chậm đặc biệt là chậm đổi mới trong tƣ duy quản lý giáo dục. Một số cán bộ buông lỏng, dễ dãi, chủ quan, đơn giản trong công tác quản lý nên còn để xảy các hiện tượng tiêu cực trong nhà trường, hiện

tƣợng vi phạm quy chế thi cử và hiện tƣợng đơn thƣ khiếu nại tố cáo gây mất ổn định trong ngành, ảnh hưởng không tốt đến cách nhìn nhận, đánh giá của xã hội về giáo dục. Công tác thanh tra kiểm tra hiệu quả chƣa cao.

Tỉnh chƣa động viên khuyến khích đƣợc nhiều các tổ chức, cá nhân tham gia vào phát triển giáo dục, chƣa có những chính sách để thu hút đƣợc đầu tư trong nước và nước ngoài cho GD&ĐT. Do đó, bước sang thời kỳ đổi mới, công tác XHHGD cần phải đƣợc tập trung đẩy mạnh, nhằm khuyến khích hơn nữa sự đóng góp của nhân dân, của các cơ quan đơn vị, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội trong và ngoài nước cùng tham gia góp sức.

* Yêu cầu mới về công tác xã hội hoá giáo dục:

Sau năm 2000, cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển ngày càng nhạnh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.

Phát triển công tác XHHGD phải đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của Đảng. Phải coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, tập trung nâng cao chất lƣợng giáo dục, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Muốn phát triển giáo dục thì phải đổi mới toàn diện, xác định những biện pháp cụ thể là: Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng “Chuẩn hóa, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học, đề cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học ngành học.

Trong giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người ngày càng trở lên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng

có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Do vậy cần phải phát triển công tác XHHGD mạnh hơn nữa để đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển GD&ĐT.

2.1.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chủ trương đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục:

2.1.2.1. Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác xã hội hoá giáo dục:

Tháng 04/2001, ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý GD; thực hiện

Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, đẩy mạnh phong trào tự học của nhân dân, thực hiện GD cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập. Tăng ngân sách đầu tƣ cho GD- ĐT theo nhịp độ phát triển kinh tế.

Thực hiện công bằng xã hội trong GD, thực hiện chủ trương xã hội hóa GD”. Trong Đại hội Đảng khóa IX, Hội nghị Trung ƣơng 6 cũng đã có những kết luận quan trọng về GD-ĐT tiếp tục duy trì và khơi dậy sự quan tâm của toàn xã hội, của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với GD.

Tập trung nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống và ý thức chấp hành pháp luật; coi trọng cả ba mặt giáo dục: dạy người, dạy chữ, dạy nghề; nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học;

phát triển năng lực, có kỹ năng thực hành, năng động, sáng tạo. Có cơ chế, chính sách giúp đỡ người dân tộc thiểu số, con em diện chính sách, người nghèo học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng. Phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu xã hội và nhu cầu người học, đồng thời phải thỏa mãn nhu cầu học tập và phát triển của mỗi người dân.

Coi trọng nâng cao chất lượng. Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, đào tạo gắn với sử dụng.

Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tiến bộ khoa học và công nghệ và củng cố an ninh quốc phòng, đồng thời phải thoả mãn nhu cầu học tập và phát triển của mỗi người dân. Coi trọng nâng cao chất lƣợng, đảm bảo hợp lý về cơ cấu trình độ ngành nghề, vùng miền, quy mô giáo dục đại trà và mũi nhọn. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiến, nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội để giáo dục, rèn luyện học sinh, đào tạo gắn với sử dụng.

Chuyển đổi dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thƣòng xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng trong giáo dục.

Đổi mới mạnh mẽ giáo dục Mầm non và giáo dục phổ thông cho phù hợp với yêu cầu mới: khẩn trương điều chỉnh, khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông bảo đảm tính khoa học, cơ bản, phù hợp với tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kết hợp việc tổ chức phân ban với tự chọn ở THPT trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân luồng từ THCS, bảo đảm đúng tiến độ và chất lƣợng phổ cập giáo dục.

Phát triển mạnh mẽ hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề quận, huyện, tạo chuyển biến căn bản về chất lƣợng dạy nghề, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Đẩy mạnh XHH, khuyến khích phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, linh hoạt. Dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp, tại làng nghề..., tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề, lập nghiệp.

Bảo đảm đủ số lƣợng, nâng cao chất lƣợng độ ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều; hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lƣợng giáo dục; cải tiến nội dung và phương pháp thi cử nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu trí thức, khả năng học tập; khắc phục những mặt yếu kém và tiêu cực trong giáo dục.

Huy động nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban ngành, các tổ chức chính trị- xã hội,... để mở phát triển giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.

Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục. Nhà nước tăng cường đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo; thực hiện miễn giảm đóng góp và cấp học bổng cho học sinh nghèo, các đối tƣợng chính sách, học sinh giỏi.

Tăng cường hợp tác quốc tế về GD&ĐT; tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới. Có cơ chế phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư hoặc kiên kết đào tạo.

2.1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chủ trương công tác xã hội hoá giáo dục.

* Quan điểm của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác xã hội hoá giáo dục:

Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây, căn cứ chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001- 2010 của chính phủ và căn cứ Nghị quyết số

05/2005/NQ- CP của Chính phủ về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.

Nội dung XHHGD thực chất là việc huy động toàn xã hội làm giáo dục ở nhiều khía cạnh khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương để xác định những nội dung XHHGD khác nhau.

Cần làm cho toàn xã hội nhận thức rõ vai trò quyết định của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước. Cần tạo phong trào học tập cho toàn xã hội, đáp ứng quyền được hưởng thành quả giáo dục ở mức cao nhất của mọi người; Giáo dục cho mọi lứa tuổi trong suốt cuộc đời, đây là quyền cơ bản của con người và là giá trị chung nhất của con người.

Huy động các lực lƣợng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục: Đảng ta đã khẳng định giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy, việc huy động các đoàn thể, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình giáo dục một nội dung quan trọng.

Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh: Cần huy động xã hội tham gia vào việc xây dựng nhà trường từ cảnh quan, nề nếp, kỷ cương, tạo không khí vui tươi hào hứng. Kết hợp hài hoà giữa ba yếu tố: Nhà trường- gia đình- xã hội trong công tác giáo dục học sinh, cần coi trọng giáo dục lối sống và giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông.

Đa dạng hoá các hình thức học tập và loại hình nhà trường: Các lực lƣợng xã hội và cá thể có thể tham gia vào quá trình giáo dục bằng cách tổ chức thành lập các cơ sở giáo dục thuộc các thành phần kinh tế bên cạnh các cơ sở nhà nước như hệ thống các trường bán công, dân lập, tư thục ở các cấp học từ Mầm non đến Đại học.

Đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục: Đa dạng hoá các nguồn lực ở đây hiểu đúng ở các khía cạnh: Nhân lực (con người)- Vật lực (cơ sở vật chất) - Tài chính (nguồn tài chính). Trong giáo dục nếu khắc phục đƣợc nội dung này thì sẽ giải quyết đƣợc mâu thuẫn giữa yêu cầu về số lƣợng và chất lƣợng ngày càng cao.

Đảng bộ tỉnh Hà Tây xác định phát triển giáo dục là nền tảng để kinh tế- xã hội trong tỉnh đi lên. Do vậy, Tỉnh đẩy mạnh công tác XHHGD tạo điều kiện cơ hội học tập cho mọi người.Tiếp tục phát triển quy mô GD&ĐT có cơ cấu hợp lý giữa các cơ sở công lập, ngoài công lập đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Khuyến khích phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Tỉnh có những chính sách ƣu tiên, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập các trường dân lập, tư thục. Thành lập các trung tâm dạy nghề, tin học ngoại ngữ, TTHTCĐ... đáp ứng nhu cầu học đa dạng của nhân dân.

Tạo bước chuyển biến cơ bản trong đổi mới và quản lý GD&ĐT, đưa hoạt động GD&ĐT ngày càng kỷ cương, nề nếp và có hiệu quả hơn.

Nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học, coi trọng giáo dục đạo đức, kết hợp dạy chữ, dạy người, dạy nghề, phấn đấu để sản phẩm của giáo dục là nguồn nhân lực có trình độ phục vụ quá trình CNH-HĐH của Tỉnh và đất nước. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các cấp học, coi đó là yếu tố quyết định để nâng cao chất lƣợng giáo dục.

Đẩy mạnh XHH giáo dục và đào tạo. Tăng cường đầu tư CSVC cho giáo dục, đảm bảo đủ phòng học kiên cố, xoá các phòng học tạm, phát triển phòng thƣ viện, phòng bộ môn, phòng thí nghiệm. Năm 2010 đạt chuẩn Phổ cập giáo dục THPT.

* Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển công tác xã hội hoá giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá:

- Phương hướng, nhiệm vụ phát triển công tác xã hội hoá giáo dục.

Tiếp tục củng cố mạng lưới, phát triển quy mô giáo dục đào tạo có cơ cấu hợp lý giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân; khuyến khích phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Phát triển quy mô theo hướng khắc phục các bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, gắn kết hữu cơ giữa đào tạo và sử dụng. Về cơ bản

Một phần của tài liệu công tác xã hội hóa giáo dục của đảng bộ hà tây từ năm 1996 2008 (Trang 54 - 88)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(131 trang)