1.3.1. Kinh nghiệm liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
1.3.1.1. Kinh nghiệm liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để phát triểncông nghiệp hỗ trợ ở một số nước Đông Á.
Hiện nay, CNHT phát triển chủ yếu ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á như một hình thức tổ chức công nghiệp đặc thù trong bối cảnh hội nhập rộng rãi và các quốc gia NICs đang chuyển dịch mạnh mẽ các cơ sở sản xuất của mình đến thị trường tiêu thụ. Ở khu vực Đông Nam Á đã định hình một số trung tâm sản xuất lắp ráp công nghiệp lớn của khu vực trên cơ sở thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Như Thái Lan là trung tâm sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, trang thiết bị, điện-điện tử-tin học-viễn thông; Philipine, Singapore là trung tâm phần mềm điện tử-tin học- viễn thông.
Một loạt các biện pháp được tiến hành như: Thành lập các tổ chức đầu ngành để làm cầu nối giữa tư nhân và khu vực nhà nước, kết hợp các lợi ích giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau, xây dựng chính sách phát triển ngành, xây dựng và quản lý việc thực hiện ngân sách và các dịch vụ dành cho khu vực kinh tế tư nhân... Sự phát triển CNHT ở các quốc gia này đều đáng để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm.
Thứ nhất là, xu hướng chuyên môn hóa theo chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp điện tử Nhật Bản.
Vào những năm 1990, thay vì sản xuất toàn bộ linh kiện cho hàng điện tử, Nhật Bản đã chuyển hướng sang nhập khẩu phụ tùng. Kể từ đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử Nhật Bản tập trung chủ yếu vào khâu sản xuất, thiết kế và phân phối trong chuỗi giá trị hàng điện tử thế giới, đồng thời
chuyển việc sản xuất linh kiện, phụ tùng sang những nước đang và chậm phát triển như Malaysia, Thái Lan, Đài Loan, … Chính vì vậy, quan hệ giữa những nhà sản xuất và nhà cung cấp ở Nhật Bản ngày càng trở nên khăng khít. Các nhà cung cấp Nhật Bản có xu hướng hội nhập theo chiều dọc một cách tương đối. Những nhà sản xuất hàng điện tử đã tăng cường đầu tư trực tiếp bằng việc mở chi nhánh sản xuất linh kiện, phụ tùng ở nước ngoài, và từ đó cung cấp các hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính cho các nhà cung cấp nước ngoài.
Trong xu hướng quốc tế hóa, ngành công nghiệp điện tử Nhật Bản phát triển dựa trên sự chuyên môn hóa theo chuỗi giá trị: Thực hiện liên kết các công đoạn khác nhau trong chuỗi, tăng quy mô toàn cầu. Việc quản trị chuỗi trong ngành điện tử Nhật Bản cũng cho thấy rõ ràng thuận lợi của các hãng tham gia. Quản trị chuỗi là tiền đề cho các hãng điện tử có thể nắm bắt thông tin về đặc điểm sản phẩm, giá cả, dự báo sản xuất và đối thủ cạnh tranh. Các sản phẩm với cấu trúc thiết kế hình khối như máy tính cá nhân chắc chắn làm cho năng suất kết cấu khối như máy tính các nhân chắc chắn làm cho dây chuyền tăng nhiều hơn thế ngay cả khi một khối riêng lẻ liên kết với một chuỗi các hoạt động ví dụ như việc liên kết giữa thiết kế, sản xuất và hoàn thiện sản phẩm. Một số công ty như Autodesk, Cadence và Mento Graphics đã mạnh dạn tạo thêm các cơ hội mới cho đơn vị chuỗi giá trị bằng cách phát triển và marketing những mẫu thiết kế công cụ tự động hóa.
Nhật Bản là một trong số những quốc gia ít có tính biến đổi về lao động, cơ sở hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên cũng không có gì nổi bật. Những thách thức của cạnh tranh đối với ngành công nghiệp điện tử của Nhật Bản thực sự xảy ra vào cuối những năm 1990. Kể từ thời điểm này, các công ty điện tử của Nhật Bản đã bắt đầu quan tâm đến tiêu chí chuỗi giá trị và do sự phát triển khác thường của hệ thống Internet đã dẫn đến nhu cầu khổng lồ trong việc truyền đạt thông tin dữ liệu và các thiết bị máy tính trong doanh
nghiệp có khả năng kết nối Internet. Những công ty này chỉ tập trung vào việc sản xuất các linh kiện riêng lẻ, các thiết bị điện tử cá nhân và phát triển những hệ thống máy tính thuộc quyền sở hữu của các doanh nghiệp có thể liên hệ với khách hàng thông qua đường truyền dữ liệu được thuê bí mật. Điều này khiến cho các công ty điện tử ở Nhật Bản hoàn toàn không có bất cứ vai trò nào trong sự phát triển chóng mặt của Internet, kết hợp với sự suy giảm liên tục của nguồn tài chính đã đưa ngành công nghiệp điện tử của Nhật Bản rơi vào một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Những công ty điện tử có tiếng của Nhật Bản ngày càng hợp tác chặt chẽ trong việc thiết kế và sản xuất những thiết bị cho cả hệ thống. Năm 2001, sự cạnh tranh từ các công ty châu Mỹ trong mạng lưới sản xuất theo mô hình độc lập đã trở thành một phần thách thức mà các công ty từ Nhật Bản phải đối mặt. Các công ty như Samsung, LG, và Hyundai đã sáp nhập với nhau một cách chặt chẽ. Tương tự như các công ty Nhật Bản, các doanh nghiệp điện tử lớn của Hàn Quốc có xu hướng theo đuổi chiến dịch “thiết bị, phụ tùng và sản phẩm”, họ sản xuất và bán thiết bị, phụ tùng trên toàn thế giới. Đến tận những năm 1990, các công ty Nhật Bản đã theo đuổi chiến dịch “Đàn sếu bay”, chuyển giao công nghệ sản xuất phụ tùng lạc hậu cho những công ty của Hàn Quốc và Đài Loan và tiếp tục ứng dụng những công nghệ mới hơn. Vào năm 1999, các công ty đặc biệt là Samsung và LG bắt đầu thu hẹp khoảng cách trên thị trường phụ tùng điện tử với những nhóm mặt hàng cụ thể như điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, thẻ nhớ dung lượng lớn và màn hình siêu mỏng.
Năm 2001, các công ty điện tử đã hòa với ngành công nghiệp điện tử toàn cầu không chỉ bởi vì họ dẫn đầu trong lĩnh vực này mà bởi chúng là những nhà cung cấp thiết bị máy tính cá nhân và linh kiện chủ yếu của máy tính. Do đó việc đình trệ của việc tiêu dùng CNTT kéo theo tiếp cận bong bóng Internet sâu rộng đã ảnh hưởng đến công ty Nhật Bản và các công ty
khác tong ngành công nghệ. Tuy nhiên, những thiệt hại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 2001 – 2002 đã gây nên những thua lỗ lớn cho những công ty điện tử Nhật Bản.
Những thành phần chính trên vi mạch như chất bán dẫn, các loại pin chất lượng cao, các con chip với bộ nhớ mới được sản xuất ở Nhật Bản. Khâu lắp ráp cuối cùng được tiến hành ở Nhật Bản được giới hạn bởi một mô hình tiến bộ nhưng khá đắt tiền. Những sản phẩm kỹ thuật thấp thường được sản xuất ơ nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, hoặc bởi các chi nhánh hay nhà cung cấp Đài Loan. Dù đã loại bỏ hết những gì lỗi thời, phi lợi nhuận, không liên quan đến kinh doanh và đẩy mạnh dây chuyền sản xuất thì chúng cũng chỉ tạo ra một sự tiến triển nhỏ bé trong quá trình sản xuất chuyên môn hóa.
Việc tăng chuyên môn hóa, sự liên kết, thúc đẩy vai trò của các doanh nghiệp nước ngoài đã khiến cho giá cả của các nguyên liệu đầu vào Nhật Bản ở nước ngoài tăng lên. Chính vì vậy mà các công ty còn lại cũng đang xem xét tới sự thay đổi đưa ra những giới hạn của họ ở ba khu vực: Hợp tác, sử dụng nguồn lực bên ngoài và dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông.1
Thứ hai là, kinh nghiệp từ việc phát triển cụm công nghiệp ô tô Quảng Châu, Trung Quốc
Cụm công nghiệp ô tô Quảng Châu thu hút được ba hãng lắp ráp lớn của Nhật Bản là Toyota, Honda và Nissan. Các doanh nghiệp hỗ trợ cho Nissan nằm ở huyện Hoa Đô, doanh nghiệp hỗ trợ cho Honda nằm ở huyện Nam Sa, và doanh nghiệp hỗ trợ cho Honda nằm ở huyện Tăng Thành, Quảng Châu. Ba huyện trở nên gần nhau hơn (1h đi từ huyện này sang huyện khác) khi tỉnh Quảng Đông xây dựng đường cao tốc vành đai thứ hai quanh thành phố Quảng Châu. Cơ sở hạ tầng phát triển đã giúp các doanh nghiệp hỗ trợ phát triển, không chỉ bó hẹp ở việc cung cấp sản phẩm hỗ trợ cho riêng công
1 TS. Nguyễn Hoàng Ánh, ThS. Vũ Thị Hạnh (2009), Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp điện tử Nhật Bản, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội
ty nào, mà mở rộng thị trường sang cả những công ty xung quanh. Từ đó, các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hỗ trợ của Honda trở nên độc lập hơn với Honda, có thể cung cấp sản phẩm cho cả Toyota và Nissan. Tương tự như vậy với các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm hỗ trợ của Toyota và Nissan. Điều đó khiến Quảng Châu trở thành một cụm công nghiệp ô tô rất hiệu quả.
Việc thành lập các liên doanh trong công nghiệp ô tô và những ngành CNHT liên quan đã tạo động lực lớn phát triển ngành CNHT ô tô cũng như công nghiệp chính tại tỉnh Quảng Châu. Quảng Châu đã thành lập Tập đoàn công nghiệp ô tô - xe máy Quảng Châu (GAIG – Guanzhou Automobile Industry Group) tại trung tâm của cụm công nghiệp ô tô - xe máy. Chủ của Khu công nghiệp tự động Quảng Châu – Guangzhou Automobile Industrial Park (GAIP) là những công ty liên doanh giữa GAIG và những công ty khác.
Chính quyền đã tạo mọi điều kiện thuận lợi thành lập một công ty liên doanh giữa GAIG và Honda năm 1998, một công ty liên doanh giữa Honda và Dongfeng Automobile, hai liên doanh trong sản xuất động cơ và phương tiện giao thông giữa GAIG và Toyota năm 2004.
Ngoài ra, Chính quyền cũng đã tạo điều kiện thành lập 16 liên doanh giữa những công ty liên kết của GAIG và 16 công ty sau: Denso, Toyota Bosyoku, Hayashi Telempu, T-ST, Stanley Electric, Honda Engineering, Bridgestone, Toyota Tsusyo Corporation, Daiki Alminium Industry, Chuo Precision Industrial, Parker Corporation, Showa Corporation, Mitsuba, Kanematsu Corporation, Nippon Konpo Unyu Soko, và Honda Express. Bên cạnh đó, một số liên doanh rất thành công khác như Guangzhou Guangqi Toyota Motor đã được thành lập vào ngày 6 tháng 9 năm 2004. Guangzhou Automobile Industry Group and Hyundai Motor Company cũng đã kí kết hợp đồng liên doanh vào ngày 21 tháng 6 năm 2005. Hay Guangzhou Automobile Industry Group and Isuzu cũng đã thành lập liên doanh vào năm 2000.
Từ sự hình thành những liên doanh lớn trong ngành công nghiệp sản xuất ô tô - xe máy cũng như trong ngành CNHT ô tô - xe máy, Chính quyền Quảng Châu đã thành lập nên một cụm công nghiệp ô tô - xe máy, không chỉ gồm những nhà máy sản xuất lắp ráp và những nhà sản xuất sản phẩm hỗ trợ mà còn có cả những công ty marketing. Theo nghiên cứu, hầu hết những công ty trong cụm công nghiệp ô tô - xe máy tại Quảng Châu đều thành lập qua việc hình thành liên doanh, liên kết với hàng loạt các công ty nước ngoài, đặc biệt là Nhật. Số lượng công ty liên doanh được thành lập đã vượt quá con số 300 vào năm 2005, trong đó có nhiều công ty sản xuất sản phẩm hỗ trợ như sản xuất thép, bộ phận chi tiết máy, linh phụ kiện điện - điện tử, vật liệu nhồi bọc đồ đạc, vv. Để tăng cường hơn nữa việc thu hút FDI vào CNHT tại tỉnh mình, Cục hợp tác ngoại thương và kinh tế của Chính quyền Quảng Châu (The Bureau of Foreign Trade and Economic Cooperation of Guangzhou Municipality) đã phát hành Hướng dẫn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp tự động Quảng Châu (A Foreign Investment Guide to Guangzhou Auto Industry) năm 2005. Cuốn sách giới thiệu những dịch vụ của thành phố giúp những nhà đầu tư nước ngoài của những công ty liên quan đến GAIG. Tập đoàn sản xuất bộ phận cho ô tô - xe máy Quảng Châu GAGC (Guangzhou Automobile Group Component) cũng được thành lập nhằm giúp đỡ và phát triển ngành CNHT ô tô - xe máy tại tỉnh.
Ngoài ra, Chính quyền tỉnh Quảng Châu cũng đã chủ động phát triển thành lập những liên doanh giữa những công ty nhà nước và những doanh nghiệp FDI. Theo đó, Chính quyền đưa ra những ưu đãi thuế và những dịch vụ one-stop hiệu quả cho những nhà đầu tư nước ngoài. Chính quyền Quảng Châu đã thành lập được 30 công ty liên doanh như thế.
Không chỉ tăng cường giúp đỡ thành lập các liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài nhằm tận dụng vốn và công nghệ, Chính quyền tỉnh
Quảng Châu cũng thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong việc xúc tiến chủ trương thu hút FDI vào CNHT ngành ô tô - xe máy của tỉnh thông qua việc tổ chức những hội thảo, triển lãm, một trong những buổi hội thảo về đầu tư đã được Chính quyền tỉnh phối hợp với Nhật Bản tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản vào tháng 10 năm 2005. Thị trưởng Zhang Guangning đã chủ trì hội thảo. Rất nhiều nhà đầu tư Nhật Bản đã ký hợp đồng đầu tư vào Quảng Châu ngay tại buổi hội thảo. Quảng Châu đang dần vươn lên sánh ngang với Bắc Kinh, Tianjin, và Thượng Hải. Thị trưởng tỉnh Quảng Châu Zhang Guangning được gọi là “Thị trưởng ô tô - xe máy”, người đã có công lớn trong việc kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Quảng Châu, đặc biệt là trong ngành công nghiệp ô tô - xe máy và các ngành CNHT liên quan.2
1.3.2.2. Kinh nghiệm liên kết với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ ở tỉnh Hưng Yên và Bình Dương.
Thứ nhất là, kinh nghiệm liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ của tỉnh Hưng Yên.
Có thể nói, Hưng Yên là một trong những tỉnh thực hiện có hiệu quả việc liên kết kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài để phát triển công nghiệp hỗ trợ. Với những lợi thế về vị trí địa lý, đất đai và nguồn nhân lực, Hưng Yên đã có nhiều giải pháp thu hút các dự án đầu tư sản xuất công nghiệp, trong đó có các dự án đầu tư của nước ngoài . Việc tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư nước ngoài thời gian qua đã góp phần không nhỏ thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ của tỉnh phát triển.
Trên địa bàn tỉnh đã được phê duyệt xây dựng 13 khu công nghiệp (KCN), trong đó có 3 KCN đã xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào hoạt động gồm: KCN Phố Nối A, KCN Phố Nối B (bao gồm KCN Dệt may Phố Nối và KCN Thăng Long II). Ngoài ra còn có một số khu công nghiệp tuy chưa xây
2 Akifumi Kuchiki (2007), The Flowchart Model of Cluster Policy: The Automobile Industry Cluster in China
dựng cơ sở hạ tầng nhưng đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động như: KCN Minh Đức, KCN Kim Động… Đến nay, tại các KCN đã có 136 dự án đầu tư của 111 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, đến từ 14 quốc gia và vùng lãnh thổ, tổng vốn đầu tư đăng ký là 2.302 triệu USD. Các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các dự án FDI tại các KCN trên địa bàn tỉnh gồm công nghiệp sản xuất, lắp ráp máy móc thiết bị, cơ khí, sản xuất linh kiện điện tử, tin học, công nghiệp may… Trong tổng số 136 dự án đầu tư đã có 113 dự án hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm ổn định cho hàng chục nghìn lao động, với mức thu nhập trung bình 5 triệu đồng/
người/tháng. Hàng năm, các doanh nghiệp FDI hoạt động tại các KCN đóng góp vào ngân sách của tỉnh hàng triệu USD. Ngoài ra, đây còn là những doanh nghiệp có công nghệ sản xuất tiên tiến, thu hút và giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động địa phương (trên 12.000 lao động).
Riêng năm 2014, Hưng Yên đã tiếp nhận thêm 86 dự án vào đầu tư, trong đó có 41 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 3,7 nghìn tỷ đồng và 300 triệu USD. Trong năm này, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh đạt 7,25%, trong đó chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,45%, góp phần đưa tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt gần 7.300 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD, tăng 23%. Đây là mức tăng cao nhất từ trước đến nay.
Những năm gần đây, được sự chỉ đạo và hỗ trợ tích cực của Chính phủ và của tỉnh, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã từng bước vượt qua khó khăn, phát huy nội lực, đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường, lấy lại đà tăng trưởng và phát triển. Các sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh có giá trị gia tăng cao, hàm lượng chất xám công nghệ lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Nhiều thương hiệu đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng và xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới như: Công ty liên doanh may Kyung