A- Giới thiệu tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
1. Lên án tội ác của chế độ thực dân Pháp và vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa đế quốc
Đúng với tên gọi, tác phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch tội ác của thực dân Pháp ở các thuộc địa của chúng bằng nhiều chứng cớ không thể chối cãi đợc.
Chúng nấp sau chiêu bài “Bình đẳng, Bác ái”, “khai hóa” để vũ trang xâm lợc,
đàn áp đẫm máu các phong trào yêu nớc, biến các dân tộc thành nô lệ.
Mọi hoạt động kinh tế, tài chính quan trọng nhất ở các nớc thuộc địa đều nằm trong tay t bản chính quốc là đặc trng thống trị của thực dân Pháp. Pháp tiến hành cớp đoạt ruộng đất của nông dân thuộc địa, lập nên các đồn điền để kinh doanh kiếm lời. Hậu quả là làm cho nông dân mất ruộng đất phải làm công trong các đồn điền, hầm mỏ, xí nghiệp của thực dân.
Họ còn chịu gánh nặng của những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất thời phong kiến. Đặc biệt là thuế thân, khi hỏi phải trình, ai quên hoặc đánh mất sẽ bị bỏ tù. Ngời dân phải nhổ thuốc, chặt cau để tránh những phiền nhiễu vì
thuế mới. Nạn đói trở thành một căn bệnh kinh niên đối với xứ thuộc địa. Nạn
dịch tễ cũng phát sinh ở nhiều nơi và có nguy cơ lan rộng. Tiền lơng công nhân tăng cha đầy 30% nhng giá sinh hoạt thì lại tăng lên ít nhất 300%.
Mỗi năm Pháp phát hành “công trái chiến thắng” để bóc lột. Trong chiến tranh, nhiều lính Phi gửi ngân phiếu về cho gia đình nhng những ngân phiếu ấy không bao giờ đến tay ngời nhận. Đến khi nhiều ngời khiếu nại thì mới điều tra phát hiện ra. Có khi cả một ngành từ trên xuống dới đều nhiễm căn bệnh ăn cắp nh vậy trong mấy năm ròng mà vẫn bình yên vô sự.
Cha có bao giờ, ở một nớc nào mà thực dân Pháp lại vi phạm mọi quyền làm ngời một cách dã man, độc ác trắng trợn đến thế. Pháp đè nặng ách bóc lột lên số phận tất cả mọi tầng lớp nhân dân, kể cả ngời lính và sĩ quan bản xứ cấp thấp trong quân đội Pháp. Nông dân là tầng lớp bị áp bức nặng nề nhất. Thuế má, su dịch....đủ thứ ngày một chất đầy lên số phận họ. Họ phải sống cùng khổ, chết
đói, bị cớp giật từ mọi phía, bằng mọi cách, bởi nhà nớc thực dân, phong kiến tân thời, bởi giáo hội Thiên Chúa. Chính sách ăn cớp của thực dân Pháp ví nh con bạch tuộc đang xiết nhiều cái vòi hút độc quyền muối, độc quyền rợu, thuốc phiện , hàng chục thứ thuế bất công, kể cả thuế máu. Bảy chục vạn ng… ời bản xứ
đặt chân lên đất Pháp, tám vạn ngời chết để lấy máu mình tới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xơng mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế.
Trớc năm 1914, Pháp coi nông dân chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay, ăn đòn của các quan cai trị; thế mà cuộc chiến tranh vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu” những ngời
“bạn hiền” của các quan cai trị. Đùng một cái, họ đợc phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”, đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, vợt đại dơng, phơi thây trên chiến trờng châu Âu.
Dân lao khổ Đông Dơng từ năm 1915- 1916 còn phải thêm cái vạ mộ lính.
Thực dân Pháp cho quan lại lấy dây chăng ngang hai đầu con đờng chính trong làng, lùa tất cả những ngời da đen phải tòng quân. Các quan tóm những ngời khỏe mạnh, nghèo khổ, ngời nào cứng cổ thì chúng tìm cách sinh chuyện hoặc phải xì tiền ra. Ngời bị bắt lính, xích tay điệu về tỉnh lỵ, tốp thì trớc khi xuống tàu bị nhốt trong một trờng học, có lính Pháp canh gác, lỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn; nhốt vào các trang trại lính với đủ thứ tên: khố đỏ, lính thợ...
Những ngời sống sót trở về đã đợc quan cai trị ghi ơn bằng một bài “diễn văn” chào mừng: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!”. Chính quyền coi rẻ tính mạng và xơng máu của những ngời bị chúng lừa bịp, “giáo dục” bằng đá đít hoặc roi vọt.
Pháp bắt dân đi phu, làm tạp dịch những công việc nặng nhọc trong khi
điều kiện cơm ăn không đủ no, uống thứ nớc bẩn, bệnh hoạn gây nên chết chóc khủng khiếp... Họ coi ngời An Nam nh những súc vật phải điều khiển bằng roi vọt. Họ quen tự coi mình thuộc một đẳng cấp quý tộc mới, có đặc quyền đặc lợi.
Văn minh “Đại Pháp” là đầu độc ngời bản xứ bằng thuốc phiện và rợu cồn
để thu lợi nhuận và làm cho nòi giống ta suy nhợc, tiêu mòn dần. Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rợu và thuốc phiện. Pháp cỡng bức ngời dân bản xứ mua rợu cất bằng gạo rẻ tiền, pha thêm chất hóa học có nồng độ 40-500, mùi vị nồng nặc khó chịu. Cứ mỗi hectôlit rợu pha thêm 8 lít nớc lã để hàng năm lãi thêm một món 432.000 đồng hay 4 triệu phrăng thì thật ti tiện và bỉ ổi hết chỗ nói. Đông Dơng nh một con nai béo mập bị trói chặt và đơng hấp hối dới những cái mỏ quặp của một bầy diều hâu rỉa rói mãi mà không no.
Nguyễn ái Quốc dành một chơng của tác phẩm để tố cáo thực dân đã gây nên bao nỗi khổ nhục cho ngời phụ nữ bản xứ. Ngời chỉ rõ không một chỗ nào ngời phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngợc. Ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, ở đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên Pháp. Họ bị xúc phạm phong hóa, trinh tiết và đời sống. Pháp đầy đọa chị em lao động đến tột độ: hà hiếp, giết, thiêu, vứt thây nạn nhân ra đồng... Ngời ta thờng nói: chế độ thực dân là ăn cớp”, tác giả xin thêm là hiếp dâm và giết ngời.” Thói dâm bạo vô độ của bọn xâm lợc không có giới hạn nào cả.
Để đánh lừa d luận Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm, thực dân Pháp thi hành một chính sách văn hoá ngu dân triệt để. Chúng hạn chế đến mức tối đa mở trờng học mặc dù trờng học. Trong 1000 làng chỉ có vẻn vẹn 10 làng có trờng học. Vào kì khai giảng, nhiều phụ huynh phải đi gõ cửa, chạy chọt mọi nơi, chịu trả gấp đôi tiền nội trú, nhng vẫn không tìm đợc chỗ cho con học và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trờng. Chính phủ thuộc địa lại tìm đủ mọi cách để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp, vì sợ nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản.
Ngời dân Việt Nam bị tớc bỏ mọi quyền lợi học tập, tự do đi lại, tự do báo chí, th tín ... Sắc lệnh năm 1898 của thực dân Pháp quy định báo chí bản xứ phải chịu kiểm duyệt trớc khi in. Quyền sơ đẳng là viết th cho nhau thì cũng không đ- ợc hởng. Thực dân Pháp xây dựng chùa chiền, nhà thờ để móc túi ngời dân bản xứ để rồi sau đó đẩy họ vào vòng mê tín dị đoan. Tác giả vạch trần những hành vi ăn cớp trắng trợn của Giáo hội nhân danh Chúa, lợi dụng mình là những sứ đồ của giáo hoàng để cớp bóc tập thể, chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân, đánh đập ngay cả em bé... Chúa đầy lòng nhân ái và toàn năng, là đấng sáng thế tối cao,
Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy các môn đồ của mình nh vậy. Các đoàn truyền giáo đã lợi dụng lòng hiếu khách của ngời An Nam để đánh cắp những bí mật quân sự, vẽ những bản đồ nộp cho quân đội viễn chinh. Họ ủng hộ thực dân Pháp đốt làng vì đã không nộp thuế cho chúng.
Trong nhiều chơng, tác giả tố cáo, phê phán cụ thể những kẻ trực tiếp gây tội ác là toàn bộ bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở thuộc địa. Tất cả bọn toàn quyền, thống đốc, khâm sứ, công sứ... cho đến bọn đội lốt tôn giáo trong các giáo hội và bọn tay sai mạt hạng của chúng đều là lũ phản động vô liêm sỉ, bóc lột tàn ác, những kẻ luôn “rạp mình sát đất” tâng bốc bọn quan thầy thực dân cớp nớc, cớp của, giết ngời. Tác phẩm nêu rõ, trừ vài trờng hợp hiếm hoi còn quan Pháp toàn là những bọn bất tài, cặn bã của xã hội Pháp, độc tài, hung ác, tham nhũng... Tên công sứ Đáclơ, chúa tỉnh Thái Nguyên vốn là một anh hàng cháo, mắc nợ nh chúa chổm ở Pháp nhng nhờ một chính khách có thế lực đã đặt làm quan cai trị ở thuộc địa.
Pháp luôn luôn ca ngợi lý tởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái nhng sự thật là phân biệt ngời da trắng và ngời da màu. Có điều thật phi lý và bất công là khi ở thuộc địa, cứ có màu da trắng là quý phái, là thuộc chủng tộc thợng đẳng. “Khi ngời ta có màu da trắng thì nghiễm nhiên ngời ta là một nhà khai hóa.” Cùng làm một việc trong cùng một xởng, ngời thợ da trắng đợc trả lơng cao hơn nhiều so với bạn đồng nghiệp khác màu da. Trong các công sở, những ngời bản xứ dù
đã làm việc lâu năm và dù rất thành thạo công việc, cũng chỉ đợc lĩnh một khoản tiền lơng chết đói; trái lại một ngời da trắng mới đợc đa vào, làm việc ít hơn, thì
lại lĩnh lơng cao hơn. Dù cùng một cấp bậc nhng ngời da trắng luôn đợc coi là cấp trên của ngời bản xứ. Một cựu nghị sĩ Pháp đi thăm thuộc địa về đã phải kêu lên: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cớp đờng còn là những ngời l-
ơng thiện”
Các quan cai trị Pháp ở Đông Dơng đều tự coi mình là những ông vua con.
Họ muốn xung quanh mình cái gì cũng xa hoa tráng lệ và nói rằng, có thế mới nâng cao đợc uy tín của họ đối với ngời bản xứ. Tất cả bọn chúng chỉ có mỗi cái tài phung phí công quỹ, còn ngời An Nam khốn khổ cứ nai lng đóng góp mãi.
Nguyễn ái Quốc châm biếm: Công lý ở Đông Dơng đợc tợng trng bằng một ngời đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm. Vì đờng từ Pháp tới Đông Dơng xa quá, xa đến nỗi sang đợc tới đó thì cán cân đã mất thăng bằng,
đĩa cân đã chảy lỏng ra và biến thành những tẩu thuốc phiện hoặc những chai rợu ty, nên ngời đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc cái kiếm để chém giết. Bà chém giết đến cả ngời vô tội, và nhất là ngời vô tội.
ở Đông Dơng, dù ngời Pháp bắn vỡ sọ một ngời Trung Kì bằng súng lục, nhốt một ngời Bắc Kì vào cũi chó, sau khi đánh đập tàn nhẫn rồi đem giết, xô
ngời gác cầu bản xứ vào đống than hồng cho chết... cũng không bị trừng trị.