Các y ếu tố ảnh hưởng đến việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực

Một phần của tài liệu thực trạng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động dạy học cho trẻ 5 – 6 tuổi tại một số trường mầm non quận bình tân, thành phố hồ chí minh (Trang 37 - 45)

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH C ỰC TRONG DẠY HỌC Ở BẬC HỌC MẦM NON

1.4. Các y ếu tố ảnh hưởng đến việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực

1.4.1. Mục tiêu dạy học ở bậc Mầm non

 Mục đích giáo dục mầm non

Mục đích giáo dục mầm non là chính là mô hình nhân cách trẻ em lứa tuổi mầm non mà xã hội cần đào tạo và thường được xác định trong các lương lĩnh, các chương trình, kế hoạch quốc gia và nó được thể hiện thành một hệ thống các mục tiêu giáo dục mầm non và nhiệm vụ giáo dục mầm non [16].

Mục đích giáo dục mầm non là sự mong muốn là dự kiến về kết quả cần đạt được của quá trình giáo dục mầm non. Những mong muốn này mang tính chất lý tưởng, là cái mà con người đang hướng tới, đang phấn đấu để đạt được. Nó có tác dụng định hướng, điều khiển hoạt động giáo dục mầm non trong giai đoạn nhất định.

 Mục tiêu giáo dục mầm non

Là một bộ phận của mục đích giáo dục mầm non, là mô hình nhân cách trẻ mầm non phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của xã hội trong giai đoạn nhất định. Nó cũng là những dự kiến về kết quả đạt được của quá trình giáo dục mầm non trong một thời gian nhất định.

Mục tiêu của giáo dục mầm non phải là điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu ở các giai đoạn sau. Nó vừa mang tính định hướng, vừa mang tính định tính, định lượng để giúp cho việc đánh giá sự phát triển trẻ một cách khách quan và thuận lợi.

Đổi mới mục tiêu giáo dục mầm non trong giai đoạn đổi mới hiện nay phải hướng tới xã hội hóa đứa trẻ, hình thành một số kỹ năng cần thiết để trẻ tham gia thuận lợi vào cuộc sống của bản thân, cộng đồng xã hội. Mục tiêu của giai đoạn này phải là điều kiện thuận lợi để thực hiện lục tiêu ở giai đoạn sau.

Những quan niệm mới về mục tiêu giáo dục mầm non phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo của nền giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay và là mô hình dự kiến vươn tới trong tương lai.

Tại điều 22 Luật giáo dục (2005) của nước Việt Nam xác định: “Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1.

Luật giáo dục sửa đổi bổ sung (2009) nêu thêm các mục tiêu “Hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo [8].

Bước sang thời kỳ đổi mới, giáo dục mầm non nói riêng và giáo dục nói chung cần có sự đổi mới trong mục tiêu giáo dục của mình. Mục tiêu giáo dục mầm non phải hướng tới việc đáp ứng và phù hợp với đặc điểm phát triển nhu cầu cơ bản của trẻ trong từng giai đoạn, sự chăm sóc và giáo dục trẻ phải nằm trong một khối thống nhất, bổ sung và hoàn thiện lẫn nhau.

Phương pháp dạy học chịu sự chi phối, quy định trước hết của mục đích giáo dục, mục tiêu dạy học. Phương pháp dạy học phải đảm bảo vạch ra được cách thức hoạt động để đạt tới mục đích nhất định. Trong dạy học theo hướng tích cực hóa, mục tiêu bài học được thiết kế một cách cụ thể, rõ ràng, khả thi, thể hiện các mức độ cần đạt của trẻ về mức độ nhận thức (biết, hiểu, vận dụng), về kỹ năng (làm được và thành thạo) về thái độ (niềm tin, ý thức, thói quen, tính cách, hành vi…) Như vậy tùy theo các mục tiêu dạy học cụ thể mà phương pháp dạy học cần sử dụng phải khác nhau, hoặc phải thay đổi một cách thích hợp.

1.4.2. Tính chất nội dung dạy học ở bậc Mầm non

Nội dung chính là cấu trúc, tổ chức bên trong của hệ - những bộ phận, những mối liên hệ cấu tạo nên hệ, nội dung dạy học phản ánh cái khách quan (hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo…) còn phương pháp dạy học là cái chủ quan, là hình thức,

cách thức, con đường nhằm chuyển tải nội dung dạy học đã xây dựng. Rõ ràng cấu trúc của nội dung quy định cách thức tổ chức của nó, tức là quy định phương pháp.

Nội dung nào, phương pháp ấy, không có phương pháp vạn năng ứng với mọi nội dung. Khi nội dung dạy học thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi phương pháp dạy học vì bao giờ phương pháp dạy học cũng chỉ là cách thức lĩnh hội những tri thức nào đó hoặc những cách thức hoạt động trí óc và thực hành nào đó. Mỗi phương pháp dạy học chỉ phù hợp với từng bài dạy nhất định.

Trong dạy học tích cực hóa, việc thiết kế, tổ chức nội dung không phải chỉ tuân thủ theo trình tự logic cấu trúc nội dung của bài học truyền thống mà phải thiết kế nội dung kiểu phân nhánh dưới dạng câu hỏi, bài tập, tình huống…cho người học giải quyết.

Trong chương trình giáo dục mầm non 2009, yêu cầu về nội dung giáo dục mầm non “Đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và nguyên tắc đồng tâm phát triển từ dễ đến khó, đảm bảo tính liên thông giữa các độ tuổi, giữa nhà trẻ mẫu giáo và cấp tiểu học;

thống nhất giữa nội dung giáo dục với cuộc sống hiện thực, gắn với cuộc sống và kinh nghiệm của trẻ, chuẩn bị cho trẻ từng bước hòa nhập vào cuộc sống; phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh nhanh nhẹn; cung cấp kỹ năng sống phù hợp với tuổi; giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy giáo, cô giáo; yêu quý anh chị em, bạn bè, thật thà, mạnh dạn, tự tin và hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học” [7].

Chương trình giáo dục mầm non 2009 là chương trình khung do bộ giáo dục và đào tạo ban hành, chương trình không quy định nội dung giáo dục nào phải gắn với phương pháp giáo dục ấy. Dó đó, giáo viên được độc lập lựa chọn phương án thực hiện chương trình giáo dục thông qua việc tổ chức các dạng hoạt động trẻ em dưới các hình thức và phương pháp dạy học khác nhau sao cho phù hợp với hứng thú và đặc điểm lứa tuổi của trẻ nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục cụ thể [21]. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực ở bậc học mầm non.

1.4.3. Đặc điểm tâm sinh lý trẻ mầm non.

Khi sử dụng các PPDHTC, đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận thức của trẻ là một thách thức lớn đối với giáo viên. Các PPDHTC đều có một ưu điểm chung là phát huy cao độ tính tích cực học tập của người học, có nghĩa là các phương pháp cũng đặt ra yêu cầu nhất định đối với khả năng, trình độ của người học. Vì vậy khi lựa chọn và vận dụng các PPDHTC cần căn cứ vào từng loại đối tượng.

Theo nghiên cứu của A.A.Liubinxkaia (1980), lứa tuổi mẫu giáo đã xuất hiện tính tích cực ở bình diện cao nhất đó là tính tích cực hoạt động trí tuệ (tính tích cực nhận thức) “Trẻ em hoàn toàn có khả năng hoạt động trí tuệ, nó biết suy nghĩ về những điều mắt thấy, tai nghe, biết giải đáp các câu đố, biết sáng tác cốt truyện và kể chuyện theo trí tưởng tượng của mình”[10]. Điều này cho thấy việc áp dụng các PPDHTC vào bậc học mầm non là hết sức cần thiết và phù hợp.

Tuy nhiên để việc vận dụng được hiệu quả, giáo viên phải xác định đúng khả năng hiện tại của trẻ, nhu cầu, hứng thú của trẻ, từ đó lựa chọn một cách phù hợp các PPDHTC.

Như chúng ta đã biết, PPDHTC nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ, hình thành tư duy linh hoạt trong mọi tình huống, khi giải quyết vấn đề.

Để phát huy được những điều đó chúng ta cần hiểu rõ việc học tích cực cũng như những biểu hiện tích cực của trẻ trong các hoạt động ở trường mầm non.

Học tích cực của trẻ ở trường mầm non được thể hiện qua hoạt động trên các đồ vật, đồ chơi và tương tác với các sự kiện và với con người…trong môi trường gần gũi xung quanh để hình thành nên những hiểu biết của bản thân. Học tích cực trong giáo dục mầm non biểu hiện:

Trẻ tự do lựa chọn nội dung, chủ đề muốn tìm hiểu.

Trẻ tự do lựa chọn phương pháp tìm hiểu.

Trẻ sử dụng vật liệu theo nhiều cách

Trẻ tìm hiểu, thao tác, kết hợp, làm biến đổi các vật liệu một cách tự do.

Trẻ mô tả những gì trẻ đang làm, phản ánh trên các hành động bằng ngôn ngữ của trẻ.

Trực tiếp hành động trên đồ dùng, đồ chơi.

Tự lực giải quyết vấn đề hay tình huống đến cùng.

Tích cực tư duy, tham gia suy luận, suy đoán, phỏng đoán, kết luận vấn đề…) Trẻ thích hoạt động tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm bằng sự phối hợp các giác quan: nghe, nhìn, sờ, ngửi, nếm (nếu có thể) đối tượng nhận thức.

Sẵn sàng hợp tác với các bạn trong nhóm, lớp.

Trẻ hay nêu câu hỏi thắc mắc với cô và bạn như: Ở đâu? Tại sao? Để làm gì?

Làm như thế nào?...Và muốn được cô giáo giải thích cặn kẽ những câu hỏi đó hoặc tìm cách để trả lời các câu hỏi đó.

Trẻ thích mô tả, kể lại, trình bày những suy nghĩ, hiểu biết của mình bằng nhiều cách khác nhau: lời nói, hành động, tranh vẽ, ký hiệu…

Trẻ chủ động, độc lập thực hiện các nhiệm vụ được cô giáo giao hoặc tự chọn.

Trẻ tập trung chú ý và kiên trì trong quá trình hoạt động, giải quyết các tình huống của cô giáo đặt ra hoặc trẻ chọn. [3], [10], [22], [36].

1.4.4. Năng lực của giáo viên mầm non

Khả năng, trình độ lựa chọn và vận dụng các PPDHTC của giáo viên được coi là mặt chủ quan của PPDH. “Dạy học là một nghệ thuật”, vì vậy không có một hệ thống phương pháp mẫu nào là tối ưu, mà cần có sự sáng tạo của giáo viên. Do đó, việc vận dụng các PPDHTC bị ảnh hưởng bởi khả năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách sư phạm, cá tính của giáo viên. Điều đó không có nghĩa là giáo viên không thể sử dụng các PPDHTC vì khó, hay không biết thì không sử dụng hay không quan tâm đến việc tìm hiểu các phương pháp này. Vấn đề đặt ra là giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu, học hỏi, nắm vững về các PPDHTC, phải tự đặt ra yêu cầu ưu tiên sử dụng các phương pháp này để phát huy vai trò chủ động, tích cực của người học.

Những yêu cầu đối với giáo viên khi vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giáo dục mầm non

Trong dạy học tích cực giáo viên phải tạo mọi cơ hội để phát triển ở trẻ khả năng tự khám phá, tìm tòi, trải nghiệm…đối tượng nhận thức.

Tôn trọng, đồng cảm với nhu cầu, lợi ích cá nhân trẻ, tạo cơ hội cho trẻ phát triển, thích ứng, hòa nhập với cuộc sống xung quanh.

Kích thích động cơ bên trong của trẻ, gây hứng thú, lôi cuốn trẻ vào các hoạt động, tạo các tình huống có vấn đề cho trẻ hoạt động, đặc biệt là hoạt động nhận thức.

Khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động và trải nghiệm, tự hoàn thiện trên cơ sở tôn trọng sự suy nghĩ sáng tạo của trẻ, chống gò ép, áp đặt làm cho trẻ thụ động.

Phát hiện được những biểu hiện tích cực của trẻ để giáo viên tạo tình huống, cơ hội và kích thích trẻ tham gia hoạt động.

Tổ chức môi trường giáo dục và chế độ sinh hoạt hằng ngày phong phú Xây dựng bầu không khí giao tiếp tích cực

Khuyến khích các hành động tự lực, tự giải quyết vấn đề, tự diễn đạt những suy nghĩ bằng lời nói của trẻ.

Khuyến khích các cách thể hiện khác nhau khi giải quyết cùng một vấn đề: dùng lời nói, ngôn ngữ cơ thể (làm động tác minh họa, biểu hiện nét mặt…), vẽ tranh, làm hình vẽ biểu đồ, ký hiệu…

Quan sát, giúp trẻ hành động theo nguyên tắc phát triển.

Có kế hoạch hoạt động dựa trên hứng thú và khả năng hiểu biết của trẻ.

Tận dụng môi trường sống thực tại cho trẻ tìm hiểu, khám phá.

1.4.5. Cơ sở vật chất

Cơ sở vật chất, điều kiện trường lớp, sân bãi, phòng ốc, các trang thiết bị dạy học, đồ dùng, học cụ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả vận dụng các PPDHTC.

Những điều kiện dạy học thuận lợi hỗ trợ cho việc vận dụng các PPDHTC rất nhiều, ngược lại những điều kiện dạy học thiếu thốn, khó khăn có thể cản trở hiệu quả sử dụng PPDHTC.

Năm 2010, Bộ giáo dục ban hành thông tư 02/2010/TT-BGD&ĐT thay thế cho quyết định số 2227/QĐ-BGD&ĐT về việc ban hành danh mục đồ chơi, thiết bị tối thiểu phục vụ thí điểm chương trình đổi mới. Qua thông tư này, Bộ yêu cầu “các sở giáo dục và đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo việc mua sắm, tự làm, sưu tầm, sử dụng vào bảo quản thiết bị phục vụ dạy học tại các cơ sở mầm non”[6]. Theo đó, các đồ dùng, trang thiết bị dạy học ở mỗi độ tuổi không hoàn toàn giống nhau, trong đó yêu

cầu tối thiểu cho trẻ 5 – 6 tuổi là 124 mục gồm 20 mục là đồ dùng, 88 mục là thiết bị dạy học, còn lại là sách và tài liệu tham khảo.

Năm 2013, Bộ ban hành thông tư 34/2013/TT-BGD&ĐT sửa đổi, bổ sung một số thiết bị được quy định tại thông tư 02/2010/TT- BGD&ĐT.

Dựa vào danh mục này các trường bắt đầu trang bị bằng các nguồn khác nhau, có thể mua, tự làm, hay vận động phụ huynh góp phần không nhỏ trong việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực cho trẻ.

Những yêu cầu đối với trang thiết bị dạy học theo hướng tiếp cận DHTC.

Trong dạy học tích cực, việc trang bị các trang thiết bị cần đảm bảo các yêu cầu sau:

Có tính năng thực hiện chương trình giáo dục.

Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, mức độ phát triển của trẻ.

Phù hợp với hứng thú, thiên hướng, năng lực của trẻ Đáp ứng nhu cầu khám phá của trẻ.

Phù hợp với thành phần giới tính, dân tộc của cả lớp.

Đồ chơi phải được làm từ nguyên vật liệu an toàn, có nguồn gốc rõ ràng, trong đó có nêu rõ chất liệu an toàn, không gây dị ứng và độc hại cho trẻ. Đồ chơi phải phải bền, cấu trúc an toàn, không có góc nhọn và cạnh sắc, không có khe hẹp hoặc lỗ để hạn chế trẻ bị kẹt tay hay chứa các chất bẩn ở đó. Màu sắc của đồ chơi phải hài hòa, không quá sặc sỡ chói mắt. Âm thanh phát ra từ đồ chơi, học cụ không quá lớn, không lạnh sắc, mà cần có âm thanh êm ái và có giai điệu.

Đồ chơi, học cụ cần mang tính đa chức năng, tức là có thể sử dụng rộng rãi theo ý tưởng của trẻ và cốt truyện của trò chơi; Có các thuộc tính dạy học (có thể lắp ráp, làm quen với hình dạng, màu sắc…); Cả lớp có thể sử dụng được; Nên dùng những đồ chơi có trong hiện thực cuộc sống như gia đình búp bê hoặc gia đình thú, đồ dùng trong gia dình búp bê, đồ chơi âm nhạc; đồ chơi tránh bạo lực như chú lính chì, bóng, bơm hơi…; phát triển trí tưởng tượng và khả năng tự thể hiện như khối xây dựng, búp bê, kim tự tháp, lắp ráp…

Yêu cầu về cây xanh cũng cần thiết, cây xanh mang tính nghệ thuật và là điều kiện tự phát triền của trẻ. Cần lựa chọn những loại cây xanh, nơi đặt cây xanh sao cho

đòi hỏi những kỹ thuật chăm sóc khác nhau. Trang bị những dụng cụ chăm sóc cây xanh để trẻ có thể chăm sóc cây. Việc lựa chọn cây xanh còn phụ thuộc vào nhu cầu giáo dục và đặc điểm lứa tuổi.

Đồ dùng, đồ chơi có thể do trẻ và phụ huynh mang vào.

Khuyến khích các vật liệu từ thiên nhiên như vỏ sò, ốc, các khối gỗ, cành cây, vỏ cây, hột, hạt…

Khuyến khích cô và trẻ cùng làm đồ chơi, học cụ để chuẩn bị cho hoạt động học kế tiếp.

Trang bị các nguyên vật liệu bỏ đi như chai, lọ, nắp…. (cô và trẻ cùng mang vào) Tóm lại, việc trang bị trang thiết bị theo hướng tiếp cận dạy học tích cực phải đảm bảo sao cho phù hợp với trẻ, phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo cho trẻ, đồng thời đảm bảo được các yếu tố về àn toàn cho trẻ.

1.4.6. Công tác quản lý

Công tác quản lý giữ một vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ vận dụng các PPDHTC. Việc xây dựng kế hoạch vận dụng các PPDHTC, bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên về các PPDHTC, kiểm tra đánh giá công tác thực hiện, huy động các nguồn lực nhằm động viên, khích lệ tinh thần giáo viên trong quá trình vận dụng các PPDHTC là một trong những yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công cùa hoạt động dạy học.

Ti ểu kết chương 1

Các PPDHTC không phải là những phương pháp dạy học hoàn toàn mới mà là sự phát huy những ưu điểm và hoàn thiện các nhược điểm của các PPDH truyền thống, đồng thời lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp DHTC cũng góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của người học nói chung, chỏ trẻ mầm non nói riêng. Trong chương 1, để hiểu rõ về các PPDHTC chúng tôi đã nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, bản chất, các ưu điểm, hạn chế và vận dụng của các PPDHTC.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú trọng phân tích về xu hướng đổi mới phương pháp dạy học của thế giới và Việt Nam. Việc nghiên cứu sâu cơ sở lý luận về các PPDHTC được xem là nền tảng để chúng tôi tìm hiểu thực trạng vận dụng các PPDHTC vào hoạt động dạy học cho trẻ 5-6 tuổi tại một số trường Mầm non Quận Bình Tân, TPHCM.

Một phần của tài liệu thực trạng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào hoạt động dạy học cho trẻ 5 – 6 tuổi tại một số trường mầm non quận bình tân, thành phố hồ chí minh (Trang 37 - 45)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(97 trang)