Chương 1 NH ỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.2. Thiên nhiên trong thơ trung đại
1.2.3. Thiên nhiên trong thơ từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII
Tiếp nối truyền thống văn học của những giai đoạn trước, văn học Việt Nam từ thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII cũng đề cập nhiều đến thiên nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của thế kỷ XVI. Tiếng thơ của ông cũng là tiếng nói của thế kỷ XVI, thế kỷ mà chế độ phong kiến nước ta bước đầu đi vào con đường khủng hoảng, do đó tư tưởng của các tầng lớp sĩ phu cũng có nhiều xu hướng phức tạp.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là những bức tranh hoa mỹ, lung linh nhiều màu sắc mà chỉ là những cảnh vật dung dị bình thường, gần
gũi với cuộc sống của bản thân nhà thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm không mặn mà với con đường công danh, mộng vương hầu không phải là ước mơ cả cuộc đời như bao người khác nên làm quan được vài năm ông xin cáo và lui về ở ẩn.
Được làm bạn, chan hòa cùng cỏ cây hoa lá là niềm vui giản dị mà thanh cao được tác giả lựa chọn:
Mịch đắc thôn khê địa nhất triền Nhàn lai ngô diệc lạc ngô thiên Hiểu lâm thái phố vân niêm lý
Dạ phiếm ngư cơ nguyệt mãn thuyền.
(Ngụ hứng, bài 4)
(Tìm được miếng đất ở cạnh con ngòi trong làng Khi thanh nhàn ta cùng vui với tính tự nhiên của ta Buổi sáng đến vườn rau, sương dính vào dép
Ban đêm chơi ở ghềnh xóm chài, trăng rọi đầy thuyền.)
Yêu thiên nhiên bằng cả tấm lòng, trái tim đa cảm của nhà thơ luôn thâu tóm tất cả những vẻ đẹp của tự nhiên vào lòng với tất cả sự nâng niu, trân trọng. Thơ ông thường thể hiện tình cảm ấm áp, tâm hồn trong trẻo trong sự gắn bó giữa con người và cảnh vật:
Trăng trong gió mát là tương thức, Nước biếc non xanh ấy cố tri
(Thơ chữ Nôm: bài 90)
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa giản dị, tươi đẹp:
Giang sơn tám bức là tranh vẽ, Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu Vừa gần gũi, thân tình như anh em một nhà:
Hoa nở luống hay tin gió
Đầm thanh còn thấy dáng trăng.
(Thơ Nôm, bài 16)
Từ chối con đường hoạn lộ, lui về ở ẩn ở Bạch Vân am tức là Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết định lựa chọn cuộc sống nghèo về vật chất nhưng thay vào đó là tinh thần luôn thanh thản, thoải mái. Ông tự do thưởng ngoạn tất cả những cảnh đẹp của tạo vật mà không hề vướng bận. Bởi vậy, giữa người và cảnh có những phút giao hòa tuyệt diệu:
Phương thảo cung ngâm xuân ý túc Vân song hoán khách điểu thanh trì.
(Ngụ hứng, bài 5)
(Cỏ thơm cung cấp ý xuân đầy đủ để ngâm vịnh
Bên cửa sổ mây che, tiếng chim gọi khách khoan thai.)
Cũng phải nói thêm rằng, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không đơn thuần là những bức tranh miêu tả vẻ đẹp của tạo hóa mà ẩn sau đó là những nỗi niềm trăn trở của thi nhân. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rời bỏ chốn quan trường lắm nhiễu nhương, nhiều rối rắm nhưng ông vẫn luôn trăn trở, day dứt cho số mệnh của dân tộc, thời đại. Vì vậy, trước thiên nhiên rất nhiều lần thi nhân đã bộc lộ nỗi lòng:
Còn một tấm lòng phó chốn trăng Họa là thanh tỏ chút nào chăng.
(Thơ Nôm, bài 78)
Vào thời điểm này, nước nhà tạm thời bị chia cắt cho nên văn học cũng có sự phân chia, thiên nhiên trong thơ cũng có sự khác nhau giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Về nội dung tư tưởng, văn học Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII, XVIII, phần lớn là những tác phẩm mang tính chất ca ngợi chính quyền phong kiến, thiên nhiên trong thơ giai đoạn này còn mang nặng tính công thức và cầu kì. Trịnh Căn thông qua cảnh trí thiên nhiên để nói lên sự phồn vinh giả tạo của thế kỷ XVII:
Lá tuôn doành quế màu lai láng, Gấm trải đường hoa khách dập dìu
(Quán Trấn Võ)
So với văn học Đàng Ngoài thì văn học Đàng Trong thể hiện hình ảnh thiên nhiên rất mực chân thực mặc dù hình thức nói chung còn thô sơ. Mạc Thiên Tích trong Hà Tiên thập vịnhđã có nhiều vần thơ mộc mạc, gần gũi và chân thực:
Dưới rừng mấy trẻ mục đồng,
Lưng trâu thổi địch, gió lồng theo khe.
Hay:
Hiu hiu ai phất gió đông,
Trên hồ tinh tú một dòng lung lay.
Tóm lại, thiên nhiên trong thơ giai đoạn này bên cạnh mục đích ca ngợi chính quyền phong kiến, vẫn có những vần thơ rất hay viết về thiên nhiên và những cảnh sắc tươi đẹp của đất nước. Với sự phân chia văn học Đàng Ngoài và văn học Đàng trong, các nhà thơ đã thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước ở cả hai miền và mỗi nơi đều có những nét đẹp riêng mặc dù hình thức vẫn còn thô sơ thiếu sự trau chuốt.