Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN QUỐC ÂM THI TẬP
1.2. VĂN BẢN LÀM CHỖ DỰA CHỦ YẾU ĐỂ NGHIÊN CỨU THI PHÁP QATT
1.2.2. Lưu ý đến một số chú thích, giải nghĩa có liên quan đến điển
Dụng điển là thi pháp của thi ca cổ điển, "gợi cổ hiểu kim" - câu thơ càng gọn, càng kiệm lời, ý thơ càng sáng càng sâu sắc.
Nguyễn Trãi thì vừa "bác cổ", vừa "thông kim", vừa là nhà nho, vừa mang tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, vừa dùng ngôn ngữ văn chương bác học, vừa vận dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, nên giải nghĩa các điển trong QATT đòi hỏi một sự liên hệ sâu xa về các loại kiến thức.
Dùng điển là nghệ thuật của người sáng tác văn chương, người làm văn bản học giải mã được điển thì khác nào "Bá Nha gặp Tử Kỳ", và người đọc như "đốn ngộ"
trước những câu thơ giản dị mà sâu sắc, ý vị.
Ở bài 41, có hai câu 7, 8:
"Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi, thấy tiên đâu"
" " Paul Schneider phiên là "Rìu bủi bủi" và chú là: "cán rìu đã mục nát thành bụi" (Manche de cognee en poussìere). Cách phiên và chú này phù hợp với điển
"Vương Chất: người đời Tấn vào núi đốn củi, thấy hai đứa trẻ đang ngồi đánh cờ. Chất bỏ rìu đứng xem. Khi xong ván cờ, Chất lấy rìu để về thì cán rìu đã mục nát về đến nhà thì đã mấy trăm năm rồi, Chất lại trở vào núi rồi thành tiên"
Nhóm làm "NTTT" (tân biên) lại phiên là: "rêu bủi bủi", nghĩa là: rêu xanh đã thành cát bụi. Hai câu 7, 8 mượn ý ở bài "Tái đáo Thiên Thai của Tào Đường". "Tái đáo Thiên Thai phỏng ngọc Chân, Thương đài bạch thạch dĩ thành trần" (Lại đến Thiên Thai hỏi nàng Ngọc Chân thì rêu xanh đã trắng thành cát bụi).
"Rìu bủi bủi" hay "rêu bủi bủi" thì cũng đều là lẽ vô thường của cuộc đời. Dù có lánh khỏi bụi trần, thoát tục tìm tiên thì "rêu xanh đá trắng đã thành cát bụi" hay "cán rìu đã mục nát" nào có "thấy tiên đâu" ?
Nếu phiên là "Lèo phơi phới" (lèo buồm thuyền đi xa tắp - Trần Văn Giáp); "rêu phơi phới: chỉ thấy cửa động rêu xanh phơi phới" (Đào Duy Anh); hay "diều phơi phới" (diều giấy bay phơi phới - Bùi Văn Nguyên) thì đều chưa thấy hết cách dụng điển sâu sắc của Nguyễn Trãi.
37
Bài 150 có câu thơ: "Hột cải tình cờ được mũi kim", xưa nay, vẫn chú rằng: Chữ Hán có câu: "Từ thạch dẫn châm, hổ phách thập giới"; nghĩa là "Nam châm thì hút chiếc kim, hổ phách thì hút hột cải", ý này thường dùng để ví tính tình hợp nhau, tình nghĩa gắn bó - ý nói: do duyên phận mà tình cờ gặp nhau.
"Đại Niết bàn kinh" có điển: "giới tử đầu châm": "ném hạt cải lên chín tầng trời mà đáp đúng mũi kim" - ý nói sự kì diệu của duyên phận.
Câu thơ: "Hột cải tình cờ được mũi kim" chính là xuất phát từ điển: "giới tử đầu châm". Truyện Kiều cũng có câu: "Cũng là phận cải duyên kim".
Giải được đúng điển thì câu thơ tự nhiên, sáng tỏ và có ý vị thâm trầm của triết học.
Ngoài việc vận dụng các điển về Phật, về Nho, về Đạo, về Thương, Chu, Phạm Lãi, Trương Lương, Đào Tiềm... "Vua nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn"... Nguyễn Trãi còn vận dụng rất nhiều lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân (từ trong ca dao, tục ngữ...) nên câu thơ, ý thơ thường giản dị mà sâu sắc.
Câu thơ "Kìa thừng nọ dai nào có đứt" (Bài 174), hay "Dợ nọ có dai nào có đứt"
(Bài 176) chính là xuất phát từ cách nói dân gian: "kia thẳng nọ dùi", hay: "Mình dùi anh thẳng mình ơi, Mình dùi anh thẳng cả đời yêu nhau".
Bi kịch của cuộc đời Nguyễn Trãi là vậy, vẫn biết là "kia thẳng nọ đùi", vẫn biết là "Thương Chu bạn cũ gác chưa đôi", và đã "Chỉn xá lui mà thủ phận", thế nhưng nhiệt tâm yêu nước thương dân đêm ngày cuồn cuộn đã kéo Nguyễn Trãi khỏi chốn
"lâm tuyền" và sung sướng viết "Biểu tạ ơn", để rồi phải chịu cái chết thảm khốc.
Về việc chú giải còn có rất nhiều vấn đề khác nữa, chúng tôi tin rằng, ngoài chú giải đã có trong sách, người đọc còn vận dụng kinh nghiệm, kiến thức của mình để liên hệ đến ý tứ sâu xa của điển, đó là qui luật của quá trình tiếp nhận văn chương.
Theo Trần Ngọc Vương: "Nhưng đứng trước Quốc âm thi tập, chúng ta còn phải hoang mang nhiều chỗ, vì nhiều lẽ. Trước hết, đó là công tác văn bản. Các chuyên gia Hán Nôm còn chưa thống nhất về việc phiên âm ở nhiều từ ngữ. Việc xác định ngữ nghĩa của Quốc âm thi tập đúng là một khoảng rộng rãi cho nhiều sai lầm chủ quan được phép xuất hiện. Liệu chúng ta có "đồ chừng" tư tưởng tình cảm của Nguyễn Trãi đi quá nhiều không, bởi ở những nhân vật như vậy, "sai một ly" là chệch "đi một dặm", mà thời gian và biến cố đã quánh lại thành một lần võ quá rắn?..." [133: 738]
38
Từ ý kiến trên ta thấy việc phiên âm, chú giải là rất phức tạp. Phức tạp từ phương diện ngữ âm lịch sử (tiếng Việt cách ta 5 thế kỷ), phức tạp từ phương diện hệ thống (một từ có trong nhiều bài nhiều khi nghĩa chưa thống nhất); phức tạp từ phương diện biến âm, phương ngữ (biến phụ âm đầu, lẫn lộn phương ngữ hiện nay và từ cổ...) và sự rắc rối xuất phát từ chỗ một từ tự nó không tồn tại độc lập mà nó phải nằm trong cấu trúc câu thơ, bài thơ - tức là liên quan đến niêm luật của bài thơ (đặc biệt khi từ đó nằm trong câu ở vị trí đối ngẫu).v.v và v.v...
Chưa kể, QATT có cái khó của một văn bản đã từng bị thất lạc, rồi tìm kiếm, tìm kiếm rồi thất lạc, rồi sao đi chép lại, rồi nét mờ chữ không rõ, rồi suy đoán, rồi tự ghi theo ý mình... Còn thêm, người làm thơ như Nguyễn Trãi chắc chắn khi dùng từ phải
"thôi xao" biết bao nhiêu lần, nên người phiên nó, chú giải nó cũng phải "thôi xao" để may ra giữ lại được giá trị nguyên thủy của một từ, một câu, và lôgic với cả bài.
Và chúng tôi, sau khi đi vào khảo cứu một số từ cổ, một số điển cố, chúng tôi thấy rằng, việc hiểu ngôn ngữ QATT - tức là hiểu đúng các từ cổ, các điển cố là đã làm cho câu thơ được hiểu đúng, được trở về với chính nó trong cái vẻ thâm trầm sâu sắc của ngôn từ chữ nghĩa.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn chương, ngôn ngữ QATT vừa là sự thú vị, vừa là sự hấp dẫn và cũng vừa là sự thách thức đối với chúng tôi. Hiểu đúng một chữ, hiểu đúng một câu thơ, hiểu đúng một bài thơ là đã làm cho văn bản đó trở nên rõ ràng, mạch lạc, tinh tế.
Nhận thức vấn đề như vậy, nên chúng tôi đi vào "Một số vấn đề về văn bản QATT" trước khi đi vào nghiên cứu thi pháp QATT ở các phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, thể loại, nhịp điệu... tức là nghiên cứu sự thống nhất giữa hình thức và nội dung trong QATT.
39
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT VỀ THI PHÁP THƠ NÔM NGUY ỄN TRÃI