Các nhân tố tự nhiên

Một phần của tài liệu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh vĩnh long theo hướng phát triển bền vững (Trang 44 - 51)

CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH VĨNH LONG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

2.1. Tổng quan về tỉnh Vĩnh Long

2.2.1. Các nhân tố tự nhiên

2.2.1.1. Vị trí địa lí

Vĩnh Long là Tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc vùng giữa sông Tiền - sông Hậu, với tọa độ địa lý từ 9o52' 45" đến 10o19' 50" vĩ độ Bắc và từ 104o41' 25" đến 106o 17' 00" kinh độ Đông. Vị trí giáp giới như sau:

- Phía Bắc và Đông Bắc giáp Tỉnh Tiền Giang và Bến Tre.

- Phía Tây và Tây Nam giáp Tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng.

- Phía Đông và Đông Nam giáp Tỉnh Trà Vinh.

- Phía Tây Bắc giáp Tỉnh Đồng Tháp.

Trên quan hệ đối ngoại, Vĩnh Long nằm trong vùng ảnh hưởng của địa bàn trọng điểm phía Nam; nằm giữa trung tâm kinh tế quan trọng là Thành phố Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. Chính nơi đây vừa là trung tâm kinh tế - khoa học kỹ thuật - văn hóa - quốc phòng, vừa là thị trường lớn sẽ có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, trong đó có liên quan chặt chẽ đến việc quản lý, phân bố sử dụng đất đai. Đặc biệt là khả năng chi phối của Trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ của Thành phố Cần Thơ (Trường Đại học Cần Thơ, Viện lúa ĐBSCL, khu Công nghiệp Trà Nóc...) và Trung tâm cây ăn trái miền Nam (Tiền Giang) là một trong những lợi thế đặc biệt của Vĩnh Long trong sự phát triển kinh tế hiện tại và tương lai.

Với vị trí địa lý như trên trong tương lai Vĩnh Long là nơi hội tụ và giao lưu giữa giao thông thủy bộ (đường cao tốc, các quốc lộ 1A, 53, 54, 57, 80 được nâng cấp mở rộng, có trục đường thủy nội địa sông Mang Thít nối liền sông Tiền và sông Hậu trong trục đường thủy quan trọng từ Thành phố Hồ Chí Minh xuống các vùng tây nam sông Hậu), cửa ngõ trong việc tiếp nhận những thành tựu về phát triển kinh tế của TPHCM và các khu công nghiệp miền Đông và là trung tâm trung chuyển hàng nông sản từ các tỉnh phía Nam sông Tiền lên TPHCM và hàng công nghiệp tiêu dùng từ TPHCM về các tỉnh miền tây. Mặt khác đây là vùng có tiềm năng về phát triển du lịch xanh với sinh cảnh sông nước, nhà vườn.

Đồng thời với hệ thống giao thông thủy bộ phát triển ngày càng hoàn thiện, Vĩnh Long với vị trí địa lý có nhiều mặt lợi thế như đã nêu trên sẽ tạo động lực cho sự phát triển KTXH theo các hướng trục giao thông thủy bộ đã được quy hoạch của tỉnh.

Gắn vị trí địa lý với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ưu đãi thì tỉnh Vĩnh Long có thế mạnh hình thành nền nông nghiệp toàn diện, đa canh, thâm canh có hiệu quả cao với các

43

nông sản chiến lược là: trái cây đặc sản, lúa, rau màu – thực phẩm, cá tôm nước ngọt, thịt heo, thịt bò, thịt gia cầm với chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

2.2.1.2. Địa hình

Vĩnh Long có địa thế trải rộng dọc theo sông Tiền và sông Hậu, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Địa hình tương đối bằng phẳng (độ dốc nhỏ hơn 20), cao trình khá thấp so với mực nước biển. Cao trình tuyệt đối từ 0,6 đến 1,2m chiếm 90% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh, phần còn lại là thành phố Vĩnh Long và thị trấn Trà Ôn có độ cao trung bình khoảng 1,25m.

Đây là dạng địa hình đồng bằng ngập lụt cửa sông, kiểu địa hình của tỉnh có dạng lòng chảo ở giữa trung tâm tỉnh và cao dần về 2 hướng bờ sông Tiền, sông Hậu, sông Măng Thít và ven các sông rạch lớn. Không chịu ảnh hưởng của nước mặn và ít bị tác động của lũ.

Xét về độ cao, địa bàn Vĩnh Long có thể chia thành 4 vùng địa hình như sau:

- Vùng có cao trình từ 1,2 - 2,0 m: có diện tích khoảng 29.934,21 ha, chiếm 22,74%;

phân bố ven sông Hậu, sông Tiền, sông Mang Thít, ven sông rạch lớn cũng như đất cù lao giữa sông và vùng đất giồng gò cao của huyện Vũng Liêm, huyện Trà Ôn. Đây là địa bàn phân bố dân cư đô thị, các khu công nghiệp và dân cư nông thôn sống tập trung ven sông rạch lớn và trục giao thông chính, đầu mối giao thông thủy bộ; nông nghiệp chủ yếu cơ cấu lúa - màu và cây ăn quả.

- Vùng có cao trình từ 0,8 - 1,2 m: có diện tích khoảng 60.384,93 ha, chiếm 45,86%, phân bố ven sông Tiền, sông Hậu và sông rạch lớn. Vùng này thích hợp cho cây ăn quả, cây hằng năm kết hợp khu dân cư.

- Vùng có cao trình từ 0,4 - 0,8 m: có diện tích 39.875,71 ha, chiếm 30,28%. Đây là vùng chuyên canh lúa của tỉnh, (chiếm 80% diện tích đất lúa); muốn trồng cây lâu năm phải lên liếp, lập bờ bao mới đảm bảo sản xuất an toàn, trong đó vùng phía Bắc quốc lộ 1A là vùng chịu ảnh hưởng lũ tháng 8 hàng năm, dân cư phân bố ít trên vùng đất này.

- Vùng có cao trình nhỏ hơn 0,4 m: có diện tích khoảng 1.481,15 ha, chiếm 1,12% có địa hình thấp trũng, ngập sâu; chỉ thích hợp trồng lúa 2 vụ/năm với điều kiện thực hiện tốt công tác thủy lợi.

Với địa hình trên, trong thế kỷ XXI có thể chịu tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu chung, song không lớn (có 2 dự báo: vào cuối thế kỷ những vùng có cao trình 0,5 m có thể bị lụt, dự báo khác gần 1 m).

2.2.1.3. Đất đai

44

Đất đai của tỉnh Vĩnh Long được hình thành do kết quả trầm tích biển lùi Holocene (cách nay khoảng 5.000-11.200 năm) dưới tác động của sông Mekong. Theo kết quả điều tra khảo sát thổ nhưỡng của Chương trình Đất tỉnh Vĩnh Long năm 1990-1994, Vĩnh Long có 4 nhóm đất chính: nhóm đất xáo trộn (đất líp) có diện tích 50.613 ha (chiếm 33.81% diện tích tự nhiên) xếp thứ 2 sau Tiền Giang thích hợp cho trồng cây ăn trái đặc sản và dưới mương vườn có thể nuôi thủy sản nước ngọt, nhóm đất phèn: 59.505 ha (chiếm 39,75%), nhóm đất phù sa: 20.844 ha (chiếm 13,95%) và nhóm đất cát chỉ có: 147ha (chiếm 0,1%).

Theo số liệu thống kê, tính đến ngày 1/1/2010, tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh có 147.912,7 ha được chia ra 5 loại đất sử dụng như sau (tỉnh không có đất lâm nghiệp): Đất nông nghiệp 116.180,6 ha, chiếm 78,6%; Đất chuyên dùng 9.163,9 ha, chiếm 6,2%; Đất ở nông thôn 5.502,3 ha, chiếm 3,7%; Đất ở đô thị 656,8 ha, chiếm 0,44%; Đất chưa sử dụng, 105,3 ha, chiếm 0,07%.

Bảng 2.2: Diện tích các loại đất tỉnh Vĩnh Long

Số TT Tên đất Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)

1 Đất phèn 90.779,06 68,94

2 Đất phù sa 40.577,06 30,81

3 Đất cát giồng 212,73 0,16

4 Đất xáng thổi 116,14 0,09

TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 131.684,99 100

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Long 2010) Theo Nghị quyết số 32/2006/NQ- CP ngày 17 tháng 11 năm 2006 của Chỉnh phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất 2006-2010 tỉnh Vĩnh Long thì đất sản xuất nông nghiệp có 106.738 ha, trong đó đất trồng cây hàng năm có 51.722 ha, đất trồng cây lâu năm là 55.016 ha (cây ăn trái, cây công nghiệp và các loại cây lâu năm khác). Thực tế sử dụng đất đến 1/1/2010 cho thấy đất sản xuất nông nghiệp, cũng như đất trồng cây hàng năm đều đạt mức lớn hơn mục tiêu quy hoạch, chủ yếu theo hướng tăng diện tích màu và cây ăn trái. Tổng kết 5 năm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, lãnh đạo tỉnh, ngành nông nghiệp cũng như các huyện thị đều thống nhất tăng diện tích cây ăn trái, giảm diện tích chuyên lúa (giảm lúa vụ 3, bỏ diện tích 2 vụ lúa) tăng diện tích luân canh lúa và hoa màu.

45

Đất Vĩnh Long có độ phì nhiêu cao bao gồm: đất líp, đất phù sa, đất phèn tiềm tàng sâu có diện tích 121.992 ha, chiếm 81,5% diện tích tự nhiên đây là tỉ lệ cao nhất ở ĐBSCL.

Đặc biệt đất ở các cù lao và ven sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ Chiên hoàn toàn chủ động nước ngọt, ngập nông nên thích hợp cho trồng cây ăn trái đặc sản, nuôi tôm, cá dưới mương vườn và trồng luân canh lúa - rau màu, đây chính là thế mạnh của Vĩnh Long.

Nhìn chung đất của Vĩnh Long có độ phì nhiêu tiềm tàng khá cao, nhất là tầng canh tác cho phép áp dụng kỹ thuật thâm canh cây trồng, phát triển trồng trọt toàn diện, đa canh, luân canh hợp lý đem lại hiệu quả kinh tế cao.

2.2.1.4. Khí hậu

Tỉnh Vĩnh Long nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.

- Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình cả năm từ 27 - 28oC, cao nhất khoảng 36,9oC, thấp nhất 17,7oC. Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm bình quân 7 - 8oC. Tổng nhiệt độ hoạt động hằng năm khoảng 9.500 - 10.000oC. Số giờ nắng trung bình khoảng 2.400 giờ, có năm lên đến 2.700 giờ; bình quân số giờ nắng/ngày là 7,5 giờ.

- Ẩm độ: Ẩm độ không khí bình quân 74 - 83%. Độ ẩm không khí cao nhất tập trung vào tháng 9 và tháng 10 giá trị đạt trung bình 86 - 87%, thấp nhất vào tháng 3 với khoảng 75 - 79%. Lượng bốc hơi bình quân hàng năm của tỉnh khá lớn, khoảng 1.400 - 1.500 mm/năm; vào mùa khô, lượng bốc hơi thấp, chỉ khoảng 116 - 179 mm/tháng.

- Lượng mưa và sự phân bố mưa: Lượng mưa bình quân của tỉnh qua các năm dao động từ 1.400 - 1.500 mm/năm. Lượng mưa tập trung chủ yếu từ tháng 5 - 11, tháng 9 - 10 có lượng mưa nhiều nhất, tháng 1 - 3 có lượng mưa thấp nhất. Nhiều năm, trong các tháng 1 - 3 hoàn toàn không có mưa, khiến thời tiết khô và nóng, thiếu nước cho cải tạo đất và sản xuất nông nghiệp.

- Chế độ gió tương đối ổn định, Vĩnh Long hầu như không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão và áp thấp nhiệt đới.

Nhìn chung, khí hậu Vĩnh Long rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với cơ cấu cây trồng và vật nuôi phong phú và các hoạt động kinh tế khác. Khí hậu điều hoà quanh năm, ít thiên tai....Tuy nhiên, sự phân hoá giữa hai mùa khiến cho vấn đề thủy lợi phải được chú trọng, nhất là việc giải quyết nước tưới vào mùa khô cho các vùng thâm canh lúa cao sản của tỉnh.

46

Những năm gần đây, thời tiết ở Vĩnh Long đã có những dấu hiệu thất thường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Mùa khô thường đến sớm và kéo dài, gây ra hạn hán gay gắt trên diện rộng. Theo dự báo của Trung tâm Khí thượng Thủy văn Vĩnh Long thì từ tháng 03-2010 sẽ xuất hiện những ngày nắng nóng trên 350C và những đợt nắng nóng gay gắt, cao điểm sẽ là cuối tháng 3. Mùa khô năm 2010 sẽ khô hạn và nắng nóng gay gắt, nhiệt độ cao nhất vào khoảng 35 - 37oC xảy ra vào tháng 04 đến nửa đầu tháng 05-2010, rất dễ xảy ra hạn. Nguyên nhân là do hiện tượng El-Nino vẫn còn đang hoạt động với cường độ có xu hướng mạnh lên và có khả năng sẽ tiếp diễn cho đến mùa hè năm 2010. Như vậy, trong suốt mùa khô 2009 - 2010, tỉnh chịu tác động của hiện tượng El-Nino với cường độ tương đối mạnh. Ngoài ra, mùa khô năm 2009 - 2010 ở Vĩnh Long đã bắt đầu rất sớm, từ trung tuần tháng 10 năm 2009. Điều đặc biệt là năm 2010 khi bắt đầu vào mùa khô, thời tiết lại ít có mưa trái mùa, như trong tháng 11 và đầu tháng 12 vừa rồi, mưa chỉ xảy ra trong 1 - 2 ngày.

Thời gian mưa trái mùa ngắn, nên chỉ mới bước vào mùa khô mà Vĩnh Long đã rất khô.

Một điều khá đặc biệt là trong nửa đầu tháng 12-2009, nhiệt độ ở Vĩnh Long đã cao hơn trung bình nhiều năm từ 1 - 2 độ, cho nên lượng bốc hơi cũng tăng lên, góp phần làm cho khô hạn diễn ra nhanh hơn.

2.2.1.5. Tài nguyên nước a. Nước ngầm:

Theo kết quả nghiên cứu của một số công trình thăm dò thì nguồn nước ngầm ở Vĩnh Long rất hạn chế và chỉ phân bố ở một số khu vực nhất định. Các tầng nước ngầm của Vĩnh Long như sau:

- Tầng nước ngầm ở độ sâu trung bình 86,4 m, nước nhạt phân bổ chủ yếu ở vùng ven sông Hậu và sông Tiền, bề dày tầng chứa nước không lớn. Trữ lượng khai thác tiềm năng khoảng 46.169 m3/ngày.

- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình 150 m, nước nhạt phân bổ khu vực ven sông Hậu và một số xã phía Nam tỉnh Vĩnh Long. Bề dầy tầng chứa nước khá lớn. Trữ lượng khai thác tiềm năng khoảng 86.299 m3/ngày.

- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình 333,2 m, chất nước kém không thể khai thác.

- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình 425 m. Bề dầy tầng chứa nước khá lớn.

Đây là tầng chứa nước đang được khai thác nhiều bằng các giếng khoan công nghiệp. Trữ lượng khai thác tiềm năng khoảng 31.669 m3/ngày.

47

- Tầng chứa nước phân bổ ở độ sâu trung bình từ 439 m trở xuống. Nước nhạt chỉ phân bổ ở khu vực thành phố Vĩnh Long (ven sông Tiền). Bề dầy tầng chứa nước khá lớn. Đây là tầng chứa nước đang được khai thác nhiều bằng các giếng khoan công nghiệp. Đặc biệt đây là tầng chứa nước khoáng. Trữ lượng khai thác tiềm năng khoảng 19.520 m3/ngày.

b. Nước mặt:

Vĩnh Long thuộc hạ lưu sông Mê Kông, nằm ở vị trí trung tâm ĐBSCL, được bao bọc bởi sông Hậu (ranh giới phía Tây Nam dài 43 km), sông Tiền (ranh giới phía Bắc dài 20 km) và sông Cổ Chiên (ranh giới phía Đông Bắc dài 52 km); ngoài ra còn có hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt dẫn nước từ sông chính vào nội đồng. Do vậy, tài nguyên nước ở Vĩnh Long rất dồi dào và chất lượng rất tốt phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, có ưu thế nhất so với các tỉnh thành trong cả nước.

Với 91 sông, kênh, rạch trên địa bàn nguồn nước mặt của Tỉnh Vĩnh Long được phân bổ đều khắp trong tỉnh. Ba con sông lớn cung cấp nước cho hệ thống kênh rạch này là:

- Sông Cổ Chiên nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh, có chiều rộng từ 800-2500m, sâu từ 20-40m với khả năng tải nước cực đại lên tới 12.000-19.000m³/s.

- Sông Hậu chảy theo hướng Đông Bắc Tây Nam, song song với sông Cổ Chiên, chạy dọc theo phía Tây Nam của Tỉnh, sông có chiều rộng từ 1500-3000m, sâu từ 15-30m, khả năng tải nước cực đại lên tới 20.000-32.000m³/s.

- Sông Măng Thít: gồm 1 phần kênh thiên nhiên, 1 phần kênh đào nối từ sông Cổ Chiên tại Quới An sang sông Hậu tại Trà Ôn, sông dài 47km, có bề rộng trung bình từ 110- 150m, lưu lượng cực đại chảy ra và vào tại 2 cửa sông như sau:

Phía sông Cổ Chiên: 1500-1600m³/s; Phía sông Hậu: 525-650m³/s.

Chất lượng nước tại 3 con sông lớn này hoàn toàn ngọt, chế độ thuỷ văn điều hoà, lưu lượng dòng chảy thay đổi theo mùa, ít chịu chi phối của thuỷ triều, tuy bị ô nhiễm nhẹ nhưng hoàn toàn dùng cho sinh hoạt được khi đã qua công trình xử lý nước, như vậy với tất cả các đô thị, khu dân cư có 3 con sông này chảy qua đều có thể lấy nước mặt (xử lý đạt tiêu chuẩn) để phục vụ cho nhu cầu nước ăn uống, sinh hoạt, phục vụ cho sản xuất công nghiệp, du lịch, đây là những thuận lợi lớn mà ít tỉnh nào có được.

c. Chế độ thủy văn

Toàn tỉnh chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông, thông qua 2 sông chính là sông Cổ Chiên (cửa Cung Hầu) và sông Hậu (cửa Định An, Trần Đề), trong

48

một ngày có hai đỉnh triều và hai chân triều không đều nhau, biến động qua các tháng trong năm.

Biên độ triều trên sông Hậu (tại Cần Thơ) dao động từ 104-172 cm, đỉnh triều 104-161 cm, chân triều thấp nhất -22cm đến -178cm; Trên sông Tiền (Mỹ Thuận) biên độ giao động từ 75-142 cm (tương ứng đỉnh triều 79 – 159cm, chân triều thấp nhất -4cm đến -169cm), tại một số điểm trên sông Mang Thít như Quới An có biên độ triều cực đại 224cm, Trà Ôn 221cm, Trà Ngoa 220, Long Đức 222cm. Đặc biệt, cường độ truyền triều qua 2 sông Hậu Giang và Sông Cổ Chiên xếp vào loại nhất nước ta (tốc độ 18-24 km/giờ), tốc độ dòng chảy ngược cao. Mực nước và biên độ triều khá cao, cường độ truyền triều mạnh, biên độ triều vào mùa lũ khoảng 70-90 cm và vào mùa khô dao động từ 114 – 140cm, kết hợp với hệ thống kênh rạch khá chằng chịt (mật độ 67,5 m/ha) nên tiềm năng tưới tự chảy cho cây trồng khá lớn, giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm năng lượng điện cũng như xăng, dầu. Khả năng tiêu rút nước tốt hơn so với các tỉnh khác của khu vực ĐBSCL, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm hàng hoá. Song gần cuối mùa lũ, đặc biệt vào tháng 10, do cường độ lũ mạnh, triều dâng cao kết hợp với mưa nhiều trong nội đồng đã có ảnh hưởng ngập úng gây khó khăn trong việc bảo vệ vườn cây ăn trái và vụ lúa Thu Đông.

Vĩnh Long không phải đối mặt với lũ ở mức cao như các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An,...phải ngừng trệ sản xuất. Một nơi ít ảnh hưởng lũ như Vĩnh Long sẽ là cơ hội để tập trung vào sản xuất tạo ra sản phẩm mà thị trường cần, đặc biệt là sản xuất giống: cây trồng, vật nuôi, thuỷ sản cho phát triển sản xuất nông nghiệp ngay sau lũ và nông sản hàng hoá cung cấp cho thị trường cho các tỉnh bị lũ cũng như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, xây dựng nông nghiệp Vĩnh Long thành hậu phương vững chắc, khai thác tối đa quy luật cung- cầu của thị trường.

2.2.1.6. Sinh vật

Nằm trong vùng đất phù sa ngọt ở trung tâm vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, Vĩnh Long là tỉnh duy nhất trong vùng không có diện tích rừng tập trung, chỉ có khoảng 140.000 ha đất trồng cây phân tán. Giới sinh vật trên địa bàn tỉnh hiện nay hầu hết đều đã được thay thế bằng hệ sinh thái nông nghiệp và các loại cây trồng.

Vĩnh Long nổi tiếng với những vườn cây trái tươi tốt trên các cù lao với nhiều trái cây đặc sản, vừa có giá trị kinh tế nông nghiệp, vừa là tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái.

Hệ động vật trong tỉnh hiện nay chủ yếu là các vật nuôi và sinh vật dưới nước. Nguồn thủy sản nước ngọt trên sông Tiền, sông Hậu và các ao hồ, kênh rạch trên địa bàn tỉnh là

Một phần của tài liệu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh vĩnh long theo hướng phát triển bền vững (Trang 44 - 51)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(117 trang)