Chương 3. Các biện pháp phòng ngừa tình hình mua bán dâm ở Việt Nam hiện nay
3.4. Kiến nghị biện pháp phòng ngừa tình hình mua bán dâm trong giai đoạn
3.4.6. Biện pháp đối với nam bán dâm
- Nâng cao trình độ văn hoá, dân trí nói chung, nâng cao đời sống kinh tế như quan tâm hộ trợ vốn cho các gia đình nghèo để họ phát triển sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống dần thoát khỏi nghèo đói, từ đó hình thành trong suy nghĩ của các thanh niên có lối sống bám ruộng, bám vườn gắn bó với làng quê không tìm đến các đô thị lớn để bương trãi kiếm sống.
- Đối với nhà trường, nơi gieo mầm tri thức cho những “chủ nhân” tương lai của đất nước, cần phải đưa nội dung giáo dục giới tính, phòng chống tệ nạn mại dâm, chú ý đến “mại dâm nam” đang phát triển từng ngày, càng tinh vi, càng phức tạp vào các trường học phù hợp với từng cấp, từng bậc học, từ đó giúp cho các sinh viên, học sinh nam nhận thức được những ý tưởng cao đẹp, sống có hoài bão, tránh xa “mại dâm nam” đang đe doạ đến thuần phong mỹ tục, giá trị văn hoá của dân tộc làm phương hại đến thể lực và trí tuệ của họ.
- Đối với các trường học như các trường đại học, cao đẳng, trung cấp,…nên có những chính sách như miễn, giảm học phí, xét trao học bổng,…
(vì hiện nay tình hình “mại dâm nam” mà đối tượng bán dâm nam là sinh viên, học sinh là khá nhiều, đa số họ đều có cuộc sống khó khăn trong các sinh hoạt như ăn ở, học hành, đôi khi vì cần tiền để đóng học phí,…), có như thế mới khích lệ được tinh thần say mê học tập, tạo đạo điều kiện cho các sinh viên, học sinh học tập tốt.
- Về pháp luật nên xây dựng và hoàn thiện một cách cụ thể hơn về vấn đề
“mại dâm nam” để có những biện pháp, chế tài xử lý vấn nạn này một cách rõ ràng. Cần xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các chủ chứa, môi giới thanh niên vào con đường hoạt động bán dâm.
- Từ phía xã hội, cần có thêm nhiều chương trình hướng đến nam bán dâm trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
- Nên có ước tính mẫu về nhóm nam bán dâm và nhóm chuyển giới làm mại dâm để có thể hộ trợ và can thiệp hiệu quả hơn
- Giảm sự kỳ thị đối với những người đồng tính.
Vì nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến ái có sự kỳ thị với các mức độ khác nhau, hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng như phớt lờ, không quan tâm. Một tỉ lệ rất nhỏ người dân có thái độ cởi mở với người đồng tính. Vì chính sự kỳ thị đó đã gây ra nhiều tác hại có thể dẫn đến những người đồng tính này tìm đến hoạt động bán dâm. Theo nghiên cứu của Viện iSEE về sự kỳ thị của người “đồng tính nam” tại Việt Nam cho thấy53:
1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính.
4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở.
4,5% cho biết từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính.
15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.
- Cần nâng cao chất lượng hơn nữa đối với các tổ chức hoạt động dành cho người đồng tính ở Việt Nam hiện nay như một số câu lạc bộ: câu lạc bộ Hải Đăng ở Hà Nội, Ánh Sao Đêm ở Đà Nẵng, Muôn Sắc Màu ở Khánh Hoà, Bầu Trời Xanh ở thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Xanh ở Cần Thơ.Các câu lạc bộ này cung cấp cho những người nam đồng tính có kiến thức cơ bản về HIV/AIDS, cũng như giúp các thành viên có cơ hội chia sẻ khó khăn trở ngại để cùng tìm cách giải quyết.
Ngoài ra còn có các tiết mục biểu diễn văn nghệ, thời trang, hài kịch lồng ghép với
53 Sơn Lâm: Thay đổi cách nhìn về người đồng tính, http://www.laodong.com.vn/Home/Thay-doi-cach-nhin- ve-nguoi-dong tinh/20096/141495.laodong, [đưa tin 7/6/2009].
các chủ đề về HIV/AIDS,…Có những mái nhà ấm cúm như thế đã tạo cho họ có cuộc sống vui chơi lành mạnh, nhận thức đúng về hậu quả của vấn nạn này và tránh xa tệ nạn “mại dâm nam”.
Tóm lại, việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình mua bán dâm có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với tiến trình phòng chống tệ nạn mại dâm, là khâu then chốt để làm giảm tệ nạn mại dâm trên thực tế. Trong phạm vi nghiên cứu của chương 3, người viết đã đưa ra được những biện pháp phòng ngừa chung và các biện pháp phòng ngừa cá biệt để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống các biện pháp phòng ngừa. Những biện pháp phòng ngừa này được xây dựng dựa trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình mua bán dâm. Vì thế những biện pháp này không chỉ có giá trị trên “sách vở”, lý thuyết mà còn có ý nghĩa thực tiễn khá cao.