Quyền công tố trong giai đoạn khởi tố

Một phần của tài liệu Quyền công tố và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyền công tố (Trang 26 - 51)

CHƯƠNG 2 NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CÔNG TỐ

2.1 Quyền công tố trong giai đoạn khởi tố

Giai đoạn khởi tố là giai đoạn mở đầu cho quá trình tố tụng, tuy khoảng thời gian giai đoạn này không nhiều nhưng nó có những đóng góp rất to lớn cho các giai đoạn về sau. Bởi vì chỉ khi nào có quyết định khởi tố vụ án hình sự ở giai đoạn khởi tố thì mới có thể tiếp tục các giai đoạn tiếp theo như điều tra, truy tố, xét xử, cho nên quyền công tố trong giai đoạn này cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Quyền công tố trong giai đoạn này được thể hiện rõ nhất qua hoạt động khởi tố vụ án hình sự.

Việc khởi tố vụ án là có căn cứ và đúng pháp luật khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi xác định đã có dấu hiệu tội phạm (Điều 100 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003), chứ không nhất thiết khi tội phạm đã rõ mới được khởi tố. Như vậy pháp luật tố tụng hình sự đã cho phép thực hành quyền công tố sớm hơn một bước để tạo điều kiện chủ động và phát hiện có hiệu quả mọi hành vi phạm tội. Theo qui định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án trong hai trường hợp: Viện kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra, Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và trường hợp Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.

2.1.1 “Viện kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra, Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân”

Khi nhận được quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thì Viện kiểm sát cần phải kiểm tra, xác minh các tài liệu để làm căn cứ ra quyết định không khởi tố vụ án. Nếu sau khi nghiên cứu thấy các tài liệu, chứng cứ xác định được hành vi xảy ra có dấu hiệu tội phạm, và quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan này không đúng các qui định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng Hình sự. Lúc này, Kiểm sát viên sẽ báo cáo với Viện trưởng để làm văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án đó và ra quyết định khởi tố vụ án.

Nếu Cơ quan điều tra không nhất trí thì Viện trưởng căn cứ vào khoản 2 Điều 109 ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra, đồng thời ra quyết định khởi tố vụ án và chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra. Theo qui định của pháp luật nước ta thì chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố, do đó mọi quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan nói trên chỉ có hiệu lực sau khi đã được Viện kiểm sát xem xét. Điều này được thể hiện rõ ở khoản 3 Điều 104:

“Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố; quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc điều tra; yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc khởi tố.”

Các quyết định khởi tố vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Ví dụ: Cơ quan điều tra ở tỉnh C nhận được điện thoại tố giác của người dân về hành vi cướp tài sản của Trần Văn B. Qua quá trình điều tra thì Cơ quan điều tra cho rằng hành vi của B không cấu thành tội phạm theo khoản 2 Điều 107 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 “Hành vi không cấu thành tội phạm” và ra quyết định không khởi tố vụ án. Sau khi nhận được quyết định không khởi tố của Cơ quan điều tra tỉnh C, Viện kiểm sát tỉnh C xem xét lại các tài liệu, chứng cứ và thấy rằng quyết định không khởi tố của Cơ quan điều tra là sai, hành vi của Trần Văn B là đủ yếu tố về mặt khách

thể, chủ thể, khách quan, chủ quan như B đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, lỗi được xác định trong trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp để cấu thành tội cướp tài sản. Kiểm sát viên được phân công điều tra vụ án này đã báo cáo với Viện trưởng làm văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tỉnh C hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án đó. Cơ quan điều tra tỉnh C đã đồng ý hủy bỏ quyết định của mình.

Qua ví dụ trên ta thấy rằng, nếu Viện kiểm sát không thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố thì đã bỏ qua một hành vi phạm tội và tội phạm. Điều này càng chứng tỏ rằng quyền công tố trong giai đoạn này rất quan trọng. Tuy đây chỉ là những nhận thức ban đầu về việc khởi tố vụ án hình sự nhưng nó sẽ là tiền đề để các giai đoạn tiếp theo dựa vào đó mà điều tra, truy tố, xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2.1.2 “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự”

Theo như khái niệm về quyền công tố và thực hành quyền công tố đã phân tích ở phần trên thì Viện kiểm sát là cơ quan được Nhà nước giao cho quyền lực để truy cứu trách nhiệm người phạm tội. Ở giai đoạn khởi tố này, Viện kiểm sát thực hiện chức năng của mình thông qua hoạt động khởi tố vụ án hình sự là một việc làm rất cần thiết để truy cứu đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội ngay từ khi bắt đầu thủ tục tố tụng hình sự. Bên cạnh việc Viện kiểm sát quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra, Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân thì Viện kiểm sát còn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự khi Hội đồng xét xử có yêu cầu hoặc Hội đồng xét xử tự ra quyết định khởi tố.

Trong quá trình xét xử tại phiên tòa; thông qua việc xét hỏi, tranh luận mà phát hiện và thu thập được những tài liệu, chứng cứ mới, mà các tài liệu, chứng cứ đó là cơ sở để khởi tố, điều tra, truy tố thì Hội đồng xét xử có quyền khởi tố hoặc làm văn bản yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp Tòa án không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự mà làm công văn kèm theo các tài liệu, chứng cứ yêu cầu Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố thì Viện trưởng phân công Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra ngay các tài liệu, chứng cứ để xác định có hay không có căn cứ để khởi tố vụ án. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm và yêu cầu của Hội đồng xét xử có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo với Viện trưởng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyển quyết định đó cùng tài liệu đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.

Trong trường hợp yêu cầu của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo với Viện trưởng làm công văn thông báo cho Tòa biết hoặc kháng nghị lên Tòa án cấp trên theo Điều 109 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Ví dụ: tại phiên tòa đang xét xử bị cáo Đinh Văn A về tội giết người để chiếm đoạt tài sản, trong quá trình xét xử Tòa án thấy rằng bị cáo A có những lời khai gian dối và cố ý che giấu. Dưới sự xét hỏi của Hội đồng xét xử, cuối cùng A đã khai nhận có thêm người đồng mưu Trần Thị Y (vợ A). Xác nhận đây là chứng cứ mới rất quan trọng cho vụ án nên Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát xem xét lại tài liệu, các chứng cứ để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Sau thời gian nghiên cứu, Viện kiểm sát xác định rằng Trần Thị Y có dấu hiệu phạm tội; vì vậy Viện kiểm sát đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội giết người để chiếm đoạt tài sản của Đinh Văn A và Trần Thị Y và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.

Sau khi khởi tố vụ án, việc tiến hành các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra có điều kiện thu thập tài liệu, chứng cứ mới. Những tài liệu, chứng cứ mới này sẽ giúp cho nhận thức đánh giá về hành vi phạm tội đầy đủ hơn, chính xác hơn. Vì vậy, những nhận thức ban đầu về tội phạm khi khởi tố vụ án không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc mới phát hiện thêm tội phạm khác thì quyết định khởi tố cần phải thay đổi hoặc bổ sung cho phù hợp theo Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã chỉ rõ: “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.”. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có cách nhìn nhận đúng đắn về tầm quan trọng của quyền công tố, quyền công tố phải có mặt ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án nhằm ngăn chặn được tội phạm và không bỏ lọt tội phạm. Tuy quyền công tố trong giai đoạn này còn mờ nhạt, nhưng từ việc ban đầu là khởi tố vụ án sẽ là đường dẫn để Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết, và cũng từ đó góp phần cho Tòa án đưa ra biện pháp chế tài thích đáng đối với người phạm tội. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn này sẽ bảo đảm “Ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” (Điều 1 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003).

2.2 Quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Điều 112 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 và Điều 13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002)

Để mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện điều tra, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thay mặt Nhà nước thực hành quyền công tố, theo đó Viện kiểm sát được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lí thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án. Theo qui định của Hiến Pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, Viện kiểm

sát thực hiện chức năng của mình bằng công tác thực hành quyền công tố trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, phân biệt rạch ròi hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và hoạt động kiểm sát điều tra, đồng thời để bảo đảm đồng bộ với qui định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 bổ sung hai Điều luật mới (Điều 112, Điều 113) qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện các công tác này. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi Viện kiểm sát có quyết định truy tố hoặc vụ án được đình chỉ theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự. Cụ thể tại Điều 112 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 qui định khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này; Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của Bộ luật này. Điều 112 qui định như sau:

“1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;

2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của Bộ luật này;

3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo qui định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo qui định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lí do;

5. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;

6. Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.”

2.2.1 “Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này

Theo như qui định trên thì quyền công tố được thực hiện qua các hoạt động khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết

định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật này. Nhưng ở đây hoạt động khởi tố vụ án hình sự đáng lẽ phải thuộc giai đoạn khởi tố, đó là giai đoạn mở đầu cho các thủ tục tố tụng về sau theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qui định20. Các hoạt động còn lại được qui định tại khoản 1 thì quyền công tố chủ yếu thể hiện rõ nhất qua hoạt động khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị can là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lý hành vi của, một người nào đó có dấu hiệu tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Có ý kiến cho rằng, quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra (theo Điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) không hoàn toàn độc lập mà chỉ phát sinh hiệu lực khi được Viện kiểm sát phê chuẩn. Trong khi Viện kiểm sát chưa phê chuẩn quyết định khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra chỉ được tiến hành một số hoạt động nhất định. Cơ quan điều tra không được tiến hành một số các biện pháp điều tra khác. Người viết không đồng ý với quan điểm này, vì theo qui định tại Điều 126 thì trong thời hạn 24 giờ cộng 3 ngày để Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì quyết định khởi tố bị can vẫn có hiệu lực.

Bởi vì, theo Điều 131 Bộ luật tố tụng Hình sự đã xác định ngay sau khi Cơ quan điều tra khởi tố bị can, do quyết định có hiệu lực pháp luật nên người thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm lúc này được xác định là bị can. Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 không có qui định cấm Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra khác mà chỉ đề cập đến những hoạt động Cơ quan điều tra cần phải làm ngay sau khi ra quyết định khởi tố bị can. Như vậy, thực chất của việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát là nội dung của kiểm sát điều tra mà không phải là nội dung của thực hành quyền công tố như Điều 112 đã qui định21.

2.2.2 “Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui định của Bộ luật này”

Qui định này chỉ ra hai nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự gồm: yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Đề ra yêu cầu điều tra là việc Viện kiểm sát đề ra các yêu cầu cần chứng minh cho Cơ quan điều tra trong việc điều tra vụ án hình sự cụ thể, còn việc áp dụng các biện pháp điều tra và cách làm để chứng minh các vấn đề đó là trách nhiệm của Cơ quan điều tra. Việc này không được hiểu là Viện kiểm sát can thiệp vào các yếu tố nghiệp vụ trong hoạt động điều tra của Cơ quan. Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra, bảo đảm phối hợp để Cơ quan điều tra nhanh chóng thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ của vụ án. Đối với các vụ án trọng điểm, phức tạp thì Kiểm sát viên

20 Xem lại phần 2.1 Quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, Tr.22.

21 Đoàn Tấn Minh, Cần xác định rõ bản chất việc thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo các Điều 112, 113 Bộ luật tố tụng Hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 14 (tháng 7/2009), Tr 18-19.

Một phần của tài liệu Quyền công tố và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyền công tố (Trang 26 - 51)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(73 trang)