CHƯƠNG 2 NHỮNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CÔNG TỐ
2.4 Quyền công tố trong giai đoạn xét xử
2.4.2 Trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố nhằm bảo đảm cho việc truy cứu đúng người, đúng tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bằng những hoạt động cụ thể như trình
bày cáo trạng, các quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án, luận tội và thực hiện kháng nghị đối với các bản án, quyết định của Tòa án.
Theo Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002: “Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;
2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm;
3. Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.”
a) Sự có mặt của Kiểm sát viên trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Theo Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 qui định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, tại Điều 189 có qui định: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hai Kiểm sát viên có thể cùng tham gia phiên tòa. Trong trường hợp cần thiết có thể có Kiểm sát viên dự khuyết.
Nếu Kiểm sát viên vắng mặt, bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp”
Theo quy định của pháp luật tại phiên tòa hình sự, Kiểm sát viên tham gia với tư cách là người thay mặt Nhà nước để thực hành quyền công tố trong việc truy tố người phạm tội ra tòa nhằm buộc tội bị cáo. Vì quyền công tố là quyền lực của Nhà nước và gắn với Nhà nước, vì vậy việc thực hành quyền công tố tại phiên tòa là thủ tục bắt buộc cần phải áp dụng. Địa vị pháp lí của Kiểm sát viên tại phiên tòa được xem xét trong mối quan hệ với Hội đồng xét xử, bị cáo và người bào chữa. Sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa làm phát sinh mối quan hệ giữa cơ quan buộc tội và cơ quan xét xử. Qua đó, ta càng thấy vai trò quan trọng của Kiểm sát viên trong phiên tòa xét xử sơ thẩm. Thông thường thì chỉ có một Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, nhưng trừ một số trường hợp được qui định cụ thể tại Điều 189 thì có hai Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố phải tham gia phiên tòa và có nhiệm vụ: đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung; tham gia xét hỏi; trình bày lời luận tội; và tranh luận với người bào chữa, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đại diện hợp pháp của họ và người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Trong trường hợp cần thiết có thể có Kiểm sát viên dự khuyết, họ tên của Kiểm sát viên dự khuyết cũng được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kiểm sát viên dự khuyết cũng phải có mặt tại phiên tòa
và được chủ tọa phiên tòa giới thiệu trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, bị thay đổi thì Kiểm sát viên dự khuyết sẽ thay thế. Vụ án sẽ được tiếp tục xét xử nếu Kiểm sát viên dự khuyết có mặt ngay từ đầu; nếu không thì phiên tòa phải được xử lại từ đầu. Nếu không có Kiểm sát viên dự khuyết thì sẽ hoãn phiên tòa và báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên khác thực hành quyền công tố tại phiên tòa.
b) Kiểm sát viên trình bày bản cáo trạng hoặc ý kiến bổ sung
Trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo qui định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 qui định, thì trước khi xét hỏi Viện kiểm sát sẽ đọc bản cáo trạng theo Điều 206:
“Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày bản cáo trạng và ý kiến bổ sung, nếu có”. Trước khi xét hỏi, theo đề nghị của chủ tọa phiên tòa, Kiểm sát viên sẽ đọc cáo trạng hoặc quyết định truy tố, nếu vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn và trình bày ý kiến bổ sung. Vì vậy khi trình bày ý kiến bổ sung Kiểm sát viên không thêm hoặc bớt nội dung bản cáo trạng về nội dung sự việc cũng như quyết định truy tố mà chỉ giải thích làm sáng tỏ thêm nội dung bản cáo trạng. Nếu cần thiết thay đổi nội dung bản cáo trạng, Kiểm sát viên có thể thực hiện trong lời luận tội trong phần tranh luận.
c) Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử bao hàm nhiều hoạt động, trong đó có hoạt động xét hỏi là hoạt động tập trung quyền công tố cao nhất. Xét hỏi tại phiên tòa là một phần của quá trình xét xử một vụ án hình sự, trong đó có Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của các đương sự phải kiểm tra các chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của vụ án. Trong giai đoạn xét hỏi này, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ, áp dụng những biện pháp được Bộ luật tố tụng Hình sự qui định để xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, nhằm xác định sự thật vụ án, đồng thời loại bỏ những tình tiết không liên quan đến vụ án. Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng để xác định sự thật vụ án. Có thể những câu hỏi và câu trả lời tại phiên tòa không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng là việc hỏi và trả lời được diễn ra một cách công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả của Cơ quan điều tra. Như vậy, xét hỏi tại phiên tòa là hoạt động tố tụng rất quan trọng, nếu bỏ qua giai đoạn này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Từ khi có Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp thì vấn đề xét hỏi tại phiên tòa hình sự lại càng được quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là vai trò của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết nêu trên đó là: “Bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Với tinh thần “tranh tụng tại phiên tòa” như Nghị quyết 08/2002 đã đề ra thì vai trò của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong giai đoạn xét hỏi là đặc biệt quan trọng. Một phiên tòa có thể hiện được tính chất tranh tụng hay không phụ thuộc phần lớn vào vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử tại phiên tòa.
Theo khoản 2 Điều 207 có qui định về trình tự xét hỏi: “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của các đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định được hỏi những vấn đề có liên quan đến vấn đề giám định”. Việc qui định về trình tự xét hỏi của Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 vẫn giống với các qui định của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 1988 nhưng không vì thế mà hạn chế tính chủ động của Kiểm sát viên trong việc tham gia xét hỏi. Theo tinh thần cải cách tư pháp thì đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo; chứng minh mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ các tình tiết, từng sự việc vụ án. Kiểm sát viên tham gia xét hỏi nhiều đối tượng trong vụ án hình sự, đầu tiên là việc xét hỏi bị cáo.
Thứ nhất, việc xét hỏi đối với bị cáo của Kiểm sát viên được qui định tại khoản 3 Điều 209: “Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo”. Đây là qui định mới rất quan trọng đối với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Việc qui định Kiểm sát viên không chỉ hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội mà còn phải hỏi cả những tình tiết liên quan đến việc gỡ tội là thể hiện bản chất tố tụng hình sự ở nước ta là tố tụng “thẩm vấn” và nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án”. Bởi vì, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Trong lời luận tội của Kiểm sát viên không chỉ nêu các chứng cứ buộc tội bị cáo mà phải nêu các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Nếu sau khi xét hỏi mà chứng minh bị cáo không có tội thì Kiểm sát viên còn phải rút quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án. Để làm tốt các yêu cầu và nhiệm vụ trên, Kiểm sát viên cần chú ý theo dõi những câu hỏi và những câu trả lời đã được Hội đồng xét xử, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi rồi. Trong trường hợp bị cáo không trả lời những câu hỏi của Hội
đồng xét xử, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc lời khai của bị cáo tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra thì đề nghị Hội đồng xét xử hoặc tự mình công bố lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra.
Thứ hai, bên cạnh bị cáo thì Kiểm sát viên còn tham gia việc hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Điều 210 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003 qui định về việc hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Đầu tiên sẽ để những người này trình bày những tình tiết có liên quan đến họ, sau đó, Kiểm sát viên sẽ hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Đối với người bị hại, người làm chứng thì cần hỏi kĩ các tình tiết có liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo. Những người này không có quyền hỏi nhau nhưng họ và bị cáo có quyền đề nghị chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
Thứ ba, Kiểm sát viên còn phải hỏi người làm chứng; người giám định; xem xét vật chứng; xem xét tại chỗ; việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức được qui định rất cụ thể qua các Điều luật trong Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003. Sau khi kết thúc phần xét hỏi sẽ chuyển qua giai đoạn tranh luận tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu bằng lời luận tội của Kiểm sát viên, đây cũng là giai đoạn có yếu tố quyết định để Hội đồng xét xử thảo luận khi nghị án trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng.
d) Tranh luận
Không chỉ có xét hỏi mới thể hiện được quyền công tố mà đến phần tranh luận quyền công tố cũng được thể hiện rất rõ qua lời luận tội của Viện kiểm sát. Đây là thủ tục diễn ra quyết liệt, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố thông qua việc buộc tội bị cáo còn luật sư hay người bào chữa tìm mọi chứng cứ để gỡ tội. Có thể nói đây là hoạt động thể hiện rất rõ bản chất quyền công tố là công khai truy cứu tránh nhiệm hình sự đối với người tội phạm.
Đầu tiên, về trình tự phát biểu tranh luận được qui định cụ thể tại khoản 1 Điều 217: “Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội”. Xét về mặt nội dung thì bản luận tội không những là căn cứ để bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về toàn bộ nội dung vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố trước Tòa án, là cơ sở để Tòa án xem xét, quyết định trong việc đưa ra phán quyết của mình đối với người bị tội và toàn bộ vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự qui định. Ở đây Kiểm
sát viên trình bày lời luận tội chứ không phải đọc lời luận tội đã được chuẩn bị trước.
Lời luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Như vậy Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá: các chứng cứ, tài liệu của vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa; ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Từ những phân tích đánh giá đó mà Kiểm sát viên đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tội đã truy tố. Đồng thời đề nghị áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; loại và mức hình phạt đối với bị cáo; tổng hợp hình phạt; cho hưởng án treo; áp dụng biện pháp tư pháp… Nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội. Như vậy trong lời luận tội, Kiểm sát viên không được kết luận về hành vi không bị truy tố hoặc về tội nặng hơn tội mà bị cáo đã truy tố. Nếu có căn cứ để truy tố thêm người, thêm tội phạm hoặc về tội nặng hơn thì Kiểm sát viên vẫn có thể đề nghị Hội đồng xét xử quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Theo Điều 218 qui định về đối đáp khi tranh luận:
“Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia tranh tụng có quyền đối đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của những người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà ý kiến những người đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.”
Theo qui định trên thì bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày không hạn chế số lần trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên; Kiểm sát viên phải đối đáp từng ý kiến; chủ tọa phiên tòa cần tạo điều kiện cho những người tham gia phiên tòa tranh luận; trong trường hợp Kiểm sát viên không tranh luận thì chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến của những người tham gia tố tụng khác. Như vậy trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc tranh luận đối đáp theo qui định của pháp luật là rất quan trọng và nặng nề. Cụ thể:
Những người tham gia tranh luận có quyền đối đáp. Bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan