Biểu tượng lá, cỏ, quả

Một phần của tài liệu Những hình ảnh và ý hay trong thơ hoàng cầm (Trang 72 - 87)

Chương 2: THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM

2.2. Biểu tượng thiên nhiên Kinh Bắc

2.2.3. Biểu tượng lá, cỏ, quả

Trong nguồn thi liệu và thi đề của thơ ca Việt Nam, thế giới thực vật luôn có những đóng góp đáng kể cho sáng tác thơ ca: các loại cây tre, xoan, trầu, cau... Vốn dĩ là những loài cây quen thuộc của làng quê từ bao đời, được các thi nhân thụ cảm như một đối tượng thẩm mỹ riêng biệt về tình yêu quê hương, văn hóa và con người Việt Nam.

Theo quan niệm của dân gian, trong quá trình hình thành và phát triển nền văn hóa, việc sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người.

Với người Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt, hệ thực vật trong tư duy dân gian người Việt luôn gắn liền với các biểu tượng về tín ngưỡng thờ cúng, sùng bái. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần, tính chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ.

Theo đó, biểu tượng là những hình ảnh cụ thể của vật thể và hiện tượng thế giới bên ngoài và các tính chất của chúng xuất hiện trong ý thức con người mà không có sự

trực tiếp tác động của kích thích bên ngoài lên các cơ quan cảm thụ con người đó… Vậy biểu tượng là yếu tố quan trọng hợp thành các rung động, cảm xúc, phương tiện có hiệu lực để điều khiển các trạng thái cảm xúc con người. Biểu tượng có nhiều loại: biểu tượng thị giác, biểu tượng thính giác, biểu tượng xúc giác, biểu tượng khứu giác, biểu tượng vận động. Trong sáng tác thơ ca thì biểu tượng nên thơ được coi là một biểu tượng có hình tượng bởi vì biểu tượng nên thơ không phải phơi bày trước mắt ta bản chất trừu tượng của cái hiện thực cụ thể.

Như vậy, có thể thấy, bản chất của biểu tượng nghệ thuật là mang tính thẩm mỹ, gắn liền với tư tưởng, tình cảm, tài năng cá tính sáng tạo ở nhà thơ. Vì lẽ đó, chỉ có những hình ảnh nào chứa đựng trong nó những đặc tính một hình tượng thi ca, nghĩa là nó cho phép ta nhận ra khái niệm của sự vật một cách cụ thể sinh động, khơi gợi trí tưởng tượng, đánh thức cả một thế giới tinh thần ở người đọc mới được xem là một biểu tượng nghệ thuật. Biểu tượng mang sắc thái riêng từng nhà thơ mà ngay từ đầu đã có chiều hướng quyết định đến cách chọn hình ảnh, tứ thơ. Nhà thơ ở nhà máy hay ở làng quê, nhà thơ ở miền núi hay ở miền biển - đều mang dấu ấn biểu tượng nhất định. Đối với từng nhà thơ, biểu tượng thời thơ ấu khá quan trọng và nó cũng giữ lâu trong tâm hồn nhà thơ. Như Bàng Bá Lân với chiếc cổng làng, Tế Hanh với biểu tượng sông nước; biểu tượng trăng hiện lên trong thơ Bác; biểu tượng con đường trong thơ Tố Hữu; biểu tượng về người lái tàu trong thơ Sóng Hồng; biểu tượng ngọn đèn trong thơ Chính Hữu; biểu tượng con nai vàng trong thơ Lưu Trọng Lư; biểu tượng chợ trong thơ Anh Thơ… Với mỗi vùng văn học, các nhà thơ, nhà văn đều có biểu tượng riêng. Các biểu tượng ấy cơ bản đã được định hình trong quá trình phát triển lâu dài của truyền thống văn học, văn hóa, mà ít sáng tạo ra những biểu tượng mới. Tuy nhiên, việc tạo dựng lên những biểu tượng mới như trong thơ Hoàng Cầm (ở đây, chúng tôi nói tới biểu tượng lá, cỏ, quả) thì quả thực không phải là nhà thơ nào cũng có được. Và, với Hoàng Cầm, ông dựng lên biểu tượng , cỏ, quả không phải là để theo tín ngưỡng thờ cúng trong văn hóa nông nghiệp của người Việt, mà để nhằm nói về biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Các biểu tượng về tình yêu đôi lứa trong thơ ông phát triển phong phú theo cuộc đời con người, theo các chuyến đi, quá trình quan sát, theo tuổi đời, theo thời gian mà định hình nên cá tính yêu của ông. Các biểu tượng đó sẽ được in dấu ấn vào hành trình thơ Hoàng Cầm và trở thành tài sản chung cho loại hình nghệ thuật thơ ca về sau.

Trong quan niệm của người Việt Nam thì cây, lá, quả, cỏ... nằm trong hệ thực vật, là những thứ luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt thuần nông, gắn với cách cảm, cách nghĩ về một nền nông nghiệp cổ truyền lấy nghề nông làm nghề gốc: Lúa non phấp phới đầu bờ/ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên (ca dao). Nhìn vào sắc màu, sự phát triển của cây cối mà biết được, đo được về thời gian, thời tiết. Vậy cây, lá, quả, cỏ trước hết nó thuộc hệ biểu tượng về đất đai nông nghiệp. Đó là sự kết nối, giao hòa giữa thiên - địa và được xem như là cội nguồn của sự sống. Nhưng đi vào trong thế giới thi ca, qua quá trình xử lý "dữ liệu" của nhà thơ thì nó lại trở thành những biểu tượng mang giá trị nghệ thuật ở một tầng bậc ý nghĩa khác nhau, nói cách khác nó biểu tượng cho một ý đồ nghệ thuật riêng của tác giả. Bởi người nghệ sỹ sáng tạo ra tác phẩm trước hết là cắt nghĩa hình tượng sự việc để nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, sau đó mới gửi gắm những tâm sự của mình. Trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, thi sĩ Hoàng Cầm cũng gửi gắm tình cảm, tình yêu của mình một phần qua hệ thống biểu tượng như thế.

Có thể nói Hoàng Cầm là nhà thơ đã tạo ra nhiều tín hiệu nghệ thuật mà trước hết đó là những tín hiệu thẩm mỹ mang chủ tính riêng biệt, biểu tượng cho một tình yêu trong ông: tình yêu quê hương đất nước luôn xót xa cay đắng và một tình yêu đôi lứa với những khối u tình nhiều khi như còn đang khắc khoải, uất nghẹn trong trái tim. Cách thể hiện tình yêu trong ông không giống với các nhà thơ hiện đại Việt Nam khác, Hoàng Cầm đã tạo lên một thế giới tình yêu lạ lùng, huyền diệu và đầy bí ẩn từ những: lá Diêu Bông, lá lan đao, cỏ bồng thi, lá trường sinh, cỏ Thiên Đồng, lá đài bi, lá bẽ bàng. Đó là những tín hiệu thẩm mĩ, những biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa đã nhập vào trong điệu hồn thơ ông, mà trước hết đó là biểu tượng của cái đẹp để nhà thơ bước vào một cõi thơ đầy bí ẩn, siêu thực, vô lý, với những hình ảnh thơ không dễ gì nắm bắt được bằng tư duy lôgíc thông thường, mà phải đặt nó trong mối quan hệ với một trường văn hóa thẩm mỹ riêng của vùng miền, của nhà thơ mới mong một sự giải mã nghệ thuật.

Trong thơ văn cổ, nếu như Tùng - Trúc - Cúc - Mai được coi là bộ tranh tứ bình biểu tượng cho bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, thì đến thơ hiện đại Việt Nam ta cũng thấy có một bộ tranh đặc sắc trong các thi phẩm của Hoàng Cầm với những: Lá - Cỏ - Quả (Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng Thi, Quả Vườn Ổi,...), những tín hiệu nghệ thuật thơ được bật ra từ cõi mơ, từ vô thức, từ hư không mang biểu tượng cho khát vọng tình yêu da diết, ám ảnh. Những tín hiệu ấy cứ ẩn hiện chập chờn, mơ màng, thức- tỉnh trong suốt quá trình sáng tác, tưởng chừng như vô nghĩa, thông thường nhưng lại tạo nên một sự

liên tưởng diệu kỳ trong trường liên tưởng mối tình yêu - Hoàng Cầm. Nếu xét kỹ ta thấy, đó là những hình ảnh thơ nghĩa đen không có mà nghĩa bóng cũng không rõ, cứ phiêu diêu, mơ hồ ảo ảnh, bởi dường như lời thơ là lời của người trong mộng báo về:

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng Chị thẩn thơ đi tìm

Đồng chiều

Cuống rạ (Lá Diêu Bông).

Sáng tác được một hình ảnh thơ như thế, hẳn nhà thơ phải bước vào một thế giới không thuộc về hiện thực, là thế giới của tiềm thức, vô thức và bật được ra những ý thơ, lời thơ mà Hoàng Cầm gọi đó là "Thần tự" và "nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi" [14, tr.211]. Phải chăng vì thế mà chúng đều là biểu tượng của cái đẹp, cái đẹp trong mối quan hệ giữa thực và hư. Hành trình đi tìm Lá diêu bông, Cỏ bồng thi, Quả vườn ổi là đi tìm cái đẹp trong cõi phiêu diêu, mơ hồ, mông lung và mãi mãi vẫn chỉ là một khối cô đơn lẽo đẽo bụi hồng của thi nhân?

Trên phương diện này, chúng tôi tìm hiểu bình diện con người tâm linh từ hai nhân vật Chị - Em gắn với biểu tượng thực vật xuyên qua những tháng năm mộng ảo của vùng Kinh Bắc diễm lệ, đa tình với những cảm xúc như vượt qua khỏi sự kiểm soát của lý trí (theo khảo sát của chúng tôi trong thơ Hoàng Cầm, cặp xưng hô Chị - Em chiếm vị trí chủ đạo: Mưa Thuận Thành 21/33 bài thơ, 99 tình khúc có 82/99 bài thơ, Về Kinh Bắc chiếm phần lớn).

Mối tình Chị - Em trong Lá Diêu Bông được nhà thơ “ép sống” trong thời gian của tâm thức cô liêu, của khát vọng ảo ảnh mơ hồ, của tư duy sáng tạo vô thức để đến khi ra đời nó là một biểu tượng bất tử của mối tình hư ảo:

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...

... Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.

Nhà thơ đã kết hợp khả năng của giấc mơ và khả năng tư duy vô thức để tạo ra các liên kết giữa các ký ức đã ghi nhớ, được chọn lọc và kích thích chúng hoạt động để thực hiện sự nhận thức về thế giới xung quanh, định hướng cho hành vi phù hợp với môi trường sống. Ở đây là tâm tình của chàng trai đa tình Hoàng Cầm năm 12 tuổi với người gái láng giềng hơn những 8 tuổi ấy giống như một câu chuyện cổ tích - Cổ tích Hoàng Cầm, cổ tích Lá Diêu Bông. Cổ Tích về một mối tình tuổi thơ thật đẹp, thật ngọt ngào ấy đã làm cho cậu bé cả cuộc đời đi đầu non cuối bể để tìm nhưng kết quả đem lại chỉ là

sự Cơ hàn của một quá trình, một chu trình hoàn tất, tính toàn thể của sự sống con người (nhân sinh thất thập cổ lai hy) mà ông đã gửi lại trong Tinh anh thể phách:

Bẩy mươi rồi vẫn cơ hàn, thẫn thờ phố dọc

người ngang té nhào Tám mươi khát cả lưỡi dao

sắc như nước loáng

uống vào nhƣ chơi Chín mươi... dẫu đến mười mươi

khát thương em quá

Khóc thôi một mình.

- ở đây là biểu tượng của hạnh phúc và sự phồn vinh, nhưng đã không tìm thấy, tình yêu từ chiếc lá ấy cũng không có được, tình yêu ấy chỉ tồn tại trong một giấc mơ thơ, giấc mơ của một thời qúa vãng cứ chập chờn ẩn hiện đẹp đẽ, sang trọng, linh thiêng mà xa vời như chiếc Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng kia. Ký ức ấy đã in quá sâu trong tâm thức nhà thơ, để mỗi khi hiện về nó lại đọng thành hình, thành khối.

Người con gái cứ lúng la lúng liếng, nửa nhìn nửa liếc, nửa kín, nửa hở vậy thôi mà để đến nỗi cái cây kia còn bật rễ lật nhào, huống chi chàng trai Hoàng Cầm đa tình đến vậy ? Có thể nói, đây là một trong 5 mối tình lạ lùng nhất trong thơ ông, là mối tình đầu đời ám ảnh nhất của ông, là giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng là vị thuốc Hoàng Cầm đắng chát để khi ông choàng tỉnh giấc mà dư âm để lại của nó là những vần thơ lạ kỳ từ trong vô thức, lạ kỳ như giấc mơ của cậu bé đầy mơ mộng tuổi 12. Mơ mộng đến mức cậu bé cứ bị ám ảnh, cứ thẩn thơ đi tìm lá ấy:

Lần 1: Hai ngày sau em tìm thấy lá Lần 2: Mùa đông sau em tìm thấy lá Lần 3: Ngày cưới chị em tìm thấy lá

Lần 4: Vẫn mải miết đi tìm cho đến khi: Chị ba con em tìm thấy lá.

Cả bốn lần tìm thấy lá, nhưng cả bốn lần người chị đều phủ nhận với một tín hiệu giao tiếp bằng mắt (eye contact):

Lần 1: Chị chau mày/ đâu phải lá Diêu Bông Lần 2: Chị lắc đầu / trông nắng vãn bên sông Lần 3: Chị cười/ xe chỉ ấm trôn kim

Sự thay đổi dần sắc thái trong câu trả lời của Chị mỗi lần nhìn lá đã thay lời giải mật mã Diêu Bông. Nghệ thuật chối từ của người chị được nhà thơ diễn tả hết sức tinh tế, mặc dù nỗi đau xé lòng của chị cứ tăng dần khi Chị nhận ra mối chân tình sâu nặng của Em. Nhưng chị thật khó nói với em một lời. Ngôn ngữ thể hiện trong thơ ông vì thế cứ mơ hồ, chỉ có thể thấy hay, rất giàu chất gợi mà khó có thể cắt nghĩa, lý giải. Ngôn ngữ ấy bắt nguồn từ sự am hiểu văn hóa, từ chiều sâu của cảm thức tư duy lưỡng phân trong chốn tâm hồn và từ sự từng trải lịch lãm của con người tác giả. Để hiểu được câu trả lời của Chị, Em phải nắm bắt bằng một tín hiệu “mắt” và càng bắt bằng tín hiệu “mắt” ấy thì Em càng thấy yêu Chị, say mê, sy mê Chị. Si mê đến nỗi đau đớn để rồi chìm vào cõi cô đơn, thảng thốt suốt cuộc đời:

Từ thủa ấy

Em cầm chiếc lá Đi đầu non cuối bể.

Và lắng nghe tiếng Gió quê vi vút gọi nơi đồng chiều ấy cứ ngân vang mãi khúc ca:

Diêu Bông hời...

... ới Diêu Bông...!.

Hoàng Cầm đã làm cho không gian hóa thời gian, khoảng cách thời gian là khoảng cách của các dòng thơ, câu thơ cứ trôi tuột một cách vu vơ mơ hồ, mải miết, phi lôgíc, siêu thực với các khoảng trống của tư duy để tạo nên một siêu hình ảnh thơ. Tiếng của chị hay là lời của gió thoảng mây bay nơi đồng chiều Kinh Bắc? Với nhà thơ cánh đồng nơi đây là miền đất của tuổi thơ, tuổi trẻ, đó là nơi tựa hồ cõi thần tiên, nơi đây các cánh đồng mọc những loại cỏ nở đầy những loài hoa vĩnh cửu - cánh đồng thiên đường.

Nhà thơ cố níu giữ hạnh phúc trong một không gian ảo, trong giấc mơ tình ái, không gian ấy hòa lẫn vào một cuộc đời thực để tạo nên những khát khao đầy ẩn ức, ngậm ngùi với nỗi niềm 80 (80 tuổi):

Dẫu anh biết Diêu Bông không thực Sao Diêu Bông cứ thức hồn em Cứ sao băng mãi đường đêm

Cứ trăng lên đậu cành mềm xuân quê.

(Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông).

Phải chăng Hoàng Cầm sống trong cõi ảo với nỗi si mê dằng dặc nên gần 60 năm trời mới nhận ra chiếc Lá Diêu Bông kia là không có thực? Hay cố tình sống trong ảo giác để được hạnh phúc? Bởi qúa khứ ấy, hình ảnh Chị - mối tình Diêu Bông ấy quá áo, quá đẹp? để giờ đây mới thú nhận một điều:

Diêu Bông gọi mãi không về

Cứ ngồi canh một giấc mơ mặn nồng ... Diêu Bông biệt chẳng cần em tiễn Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm ... Diêu Bông anh áng chừng mệt mỏi.

Cái đẹp gần gũi mà sao như xa vời quá, linh thiêng, huyền bí quá không thể chạm tới được. Trong sự cố công trên đường đi tìm tình yêu, tìm chiếc lá bùa yêu thuở ấy, giờ đây chỉ còn tồn tại trong chuyện kể mà thôi. Và thi nhân nhận ra rằng chiếc lá Diêu Bông là không có thực, nó chỉ ẩn hiện trong tâm thức của kẻ khát yêu:

Rằng... xƣa... ai biết vì sao

Lá gì lại gọi thế nào...

Diêu Bông...

(Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông).

Giờ đây chỉ còn là hoài niệm về một quá khứ xót xa, đắng đót, đầy sự tiếc nuối, hoài niệm cho những giấc mơ. Vì thế mà người buồn, thơ cũng buồn theo. Với Hoàng Cầm, Diêu Bông chỉ là ảo, là hư, là hư ảo nên ông mới nợ đời, nợ tình vì cái hư ảo ấy:

Một đời nợ suốt Diêu Bông

Gọi đôi kết lứa xe hồng đƣợc đâu.

(Ai xui chắp mảnh xe hồng).

Điều đó cho thấy lá Diêu Bông chỉ còn tồn tại với ý nghĩa là biểu tượng cho một tình yêu của Hoàng Cầm, Hoàng Cầm - Diêu Bông - Mối tình thơ. Lá Diêu Bông là lá gì? Nó có ở đâu... đến người sáng tạo ra nó, cho nó hiện hữu trong trái tim cháy bỏng yêu đương của đôi lứa cũng không biết nó mọc ở nơi nào, hình dáng ra so. Có thể nói, làm được điều đó, Hoàng Cầm đã tạo dựng cho mình một sự độc đáo lớn trong lịch sử thơ tình Việt Nam: ông đã vẽ chiếc lá tình yêu ấy từ cõi mộng để chuyển hóa vào cõi thực.

Phải chăng lá Diêu Bông chính là biểu tượng của tình yêu trong trẻo, đầy tính bản năng, song cũng đầy tính văn hoá- một thứ tình yêu lý tưởng hằng khao khát? Mối tình của

Một phần của tài liệu Những hình ảnh và ý hay trong thơ hoàng cầm (Trang 72 - 87)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(166 trang)