Chương 3: VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ
3.2. Đặc trưng vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hoàng Cầm
3.2.1. Sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ
Trước hết, đó là sự kết hợp của ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học vùng Kinh Bắc:
Thơ Hoàng Cầm là đặc sản tinh thần tự nhiên trong sáng của vùng quê Quan họ Kinh Bắc nổi tiếng. Thơ ông có sự kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học, trong đó yếu tố dân gian được thừa kế từ ngôn ngữ Quan họ là chủ yếu. Do hồn quê đọng lại những làn điệu dân ca phóng khoáng trong tâm hồn ông nên bút pháp Hoàng Cầm đã thể hiện được sự độc đáo, súc tích, ngôn ngữ thơ tinh luyện đầy biến ảo, cấu tứ phóng túng, câu cú tung ra hay tạo sự bất ngờ… tạo nên một phong cách rất riêng Hoàng Cầm, tạo nên nét riêng so với các tài tử khác ở trấn Kinh Bắc.
So với các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian khác như hát xoan, hát ghẹo, hát chèo, hát ca trù, hát ví dặm, hát Thường Thang, hát tuồng, cải lương, ... thì hát Quan họ có thời gian tồn tại lâu đời nhất (tuổi thọ hàng ngàn năm). Điều đó đã chứng minh hát Quan họ là một nét văn hóa bản địa không những không bị phong kiến phương Bắc đồng hóa, tiêu diệt, mà ngược lại vẫn phát triển nhờ bản sắc riêng và sức sống của nó trong tư duy dân tộc và tâm hồn người dân vùng Kinh Bắc. Khẳng định được về mặt thời gian, Quan họ len lỏi vào không gian của vùng miền, luồn lách qua các sông ngòi, bao quanh các núi đồi, đình chùa, thôn làng Kinh Bắc để hoà cùng đời sống sinh hoạt văn hóa, phong tục của nhân dân.
Lời ca Quan họ gắn với nếp sống, sinh hoạt, những tập tục, lề thói đã kết tinh tâm hồn, tình cảm và những ước mơ khát vọng cao đẹp về nhiều mặt của người Kinh Bắc.
Nhờ thế, Quan họ đã hun đúc lên một bản lĩnh Văn hóa vùng hết sức độc đáo và là linh hồn của văn hóa Kinh Bắc. Nơi đây có 49
- - -
n ngoài cho đến ngôn ngữ, cử chỉ cả khi đứng, ngồi, mời chào… đều biểu thị sự tôn trọng quý mến:
(Lời ca Quan họ).
, nên n
, giọng điệu thơ trong bài Quan họ mở đầu, cũng là một điển hình như vậy: Mẹ kể chuyện ngày xƣa xa lắm/
Tháng tám ao hồ mát lạnh/ Làng quê còn níu lại hương sen/ Mười tám gái trai/ Thả một con thuyền/ Song song chín đôi/ Mắt nhìn trong mắt/ Nón nghiêng tăm tắp/ Ngày mai ai chắc đƣợc gần ai.
Cầm như một nốt nhạc tính không thể thiếu mỗi khi nhà thơ động chạm đến cung đàn Quan họ: Quen nhau vì tiếng hát/ Qua sông tìm nhau/ Tìm giải yếm nâu/ Bắc cầu đôi ta/
Tìm thắt lƣng xanh/ Vắt cành hoa lý/ Hỡi con chim khuyên/ Hót chuyền cành tre/ Có đến bên hè… (Khi mùa xuân trở về).
,
, tinh t .
-
, song cũng nén nghẹn vô cùng. Chất Quan họ trong thơ ông còn thể hiện ở hệ thống ngôn từ đặc trưng của ngôn ngữ quan họ đầy ắp các mỹ từ với những: chẻ tre đan nón ba tầm/ cho cô mình đội xem hội đêm rằm; hay với những Ứ… hự… hề… hi… ha…/ U… ơ… ời… ới… a…; rồi những điệu lý, cùng nhổ sào, vƣợt cạn, phận đen tóc trắng, núm hồng thơm thảo, canh cải lƣng canh, gối lằn nếp nếp… Nói chung đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng thấy ngôn ngữ Quan họ với những đặc trưng riêng biệt của vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc.
Thơ Hoàng Cầm là đặc sản văn minh tinh thần quê hương Kinh Bắc - miền quê Quan họ - xứ của một cộng đồng làng xã, rất Đại Việt, rất dân chủ và bình đẳng. Con người ở đây lấy tình làng nghĩa xóm làm trọng. Phép Vua thua lệ làng. Hội đồng kỳ lão có quyền cao hơn chức dịch. Ra đường phải cúi đầu chào các già làng, còn với chức dịch như Chánh Tổng, Lý Trưởng xưa thì tùy, không chào cũng không sao. Đi hát quan họ, vào đám hội thì mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, chức vị, không dè bỉu "tiền án, tiền sự"... Tất cả chỉ là "liền anh, liền chị", các quan viên họ cùng say đắm với yêu nhau cởi áo cho nhau và bao giờ thấy lá diêu bông/ để cho váy lụa buông chùng... mà hay!. Thơ Hoàng Cầm cũng do xuất phát từ hồn quê là thế, với bút pháp độc đáo, một phong cách rất riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng, thường bất chấp văn phạm. Tuy nhiên cũng cần nói một điều là đối với người Quan họ, họ không thích và không chấp nhận sự thô kệch, vụng về trong việc sử dụng ngôn ngữ, do đó, ảnh hưởng đặc điểm tâm lý này của người Quan họ, ta thấy Hoàng Cầm đã sử dụng ngôn ngữ một cách sang trọng, theo sự tinh tế của người Quan họ. Mặt khác, ông là người kế tục ngôn ngữ Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại - một lối thơ siêu thực hôm nay nên đạt được những thành tựu nghệ thuật cơ bản. Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng tràn trề giải thoát. Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Kinh Bắc đã đạt tới độ hàn lâm là thế.
Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư viễn của tâm linh với rất nhiều đam sy, trầm ẩn nên không hiếm khoảnh khắc hồn thơ thi sỹ nhập vào vô thức như lời ca quan họ, như ngọn lửa sưởi ấm tình người, là tia nắng mới tỏa sáng nơi chân trời cũ, như ai đó dù đi đâu, đến đâu vẫn xe duyên, gửi hồn về Kinh Bắc thân thương, như chiếc ghim cho cánh diều bay xa, bay cao.
Như đã nói, ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là sự kết hợp của thứ ngôn ngữ dân gian và bác học vùng Kinh Bắc. Thơ ông hấp dẫn nhiều thế hệ người đọc khác nhau, vì ngoài những tìm tòi về cách tân nghệ thuật, Hoàng Cầm vẫn gìn giữ cho riêng mình một vốn ngôn ngữ và hình ảnh đặc trưng Kinh Bắc, độc đáo, tài hoa, thị thành mà quê kiểng.
Nhiều câu thơ của ông, dù không phải thơ tình, vẫn làm say đắm, thu hút bao nhiêu trái tim người Việt. Nghệ thuật bao giờ cũng phải đạt đến mức vừa và đủ, già một chút là thừa, non một chút là thiếu. Thơ Hoàng Cầm cứ chông chênh trước mắt mọi người như chiếc kiềng hai chân. Đứng được như vậy bởi cái bản lĩnh nghệ thuật của ông đã được khẳng định, vì ông có những cái chân mờ khác của trực cảm tâm linh chống đỡ, đó là ngôn ngữ thơ được tinh luyện qua đời sống văn hoá dân tộc vào đời sống văn hoá cá nhân ông, nhà thơ đã bỏ đi tất cả những từ thừa, những câu thừa để tạo nên một cấu trúc văn bản nghệ thuật gọn gàng. Ngoài ra, ông còn đưa vào những từ mới lạ, hình ảnh độc đáo, riêng biệt, sáng tạo dựa trên ngôn ngữ bác học vùng Kinh Bắc, biết cách xếp đặt chúng làm cho câu thơ mới lạ hơn mà khi đọc vẫn thấy rất sang, mang giá trị thẩm mỹ cao và ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng. Do đó đọc thơ Hoàng Cầm không nên chỉ đi tìm những tư tưởng cao siêu, hay những tình cảm đặc biệt, mà người đọc dễ bị thu hút bởi cái “sang” của thơ ông và cái “say‟ của người nghệ sĩ đất Kinh Bắc:
- Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng (Lá diêu bông);
- Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương Mắt tròn cối xay (Nước sông Thương);
- Đêm phương Bắc khi sao hôm nhẹ khóc Hương tím em về đậu giữa trang thơ Thả cô đơn gió xanh lùa mái tóc
Dìu em đi từng bước ấm sương mờ (Ngẩn ngơ);
- Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ
Quay bánh linh xa miết triệu vòng (Chị Em xanh);
- Sơn ca chắt nắng
Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng (Đếm nắng);
Hoặc hai bài Lá Diêu Bông rồi lại Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, hoặc Tinh anh thể phách rồi lại Thể Phách tinh anh có hai câu đầu láy nhau khá điệu: Em trao vẹn cả tâm hồn/ Là giam tôi chật vòng tròn cung trăng, và: Em trao vẹn cả thân mình/ Là giấm ớt tía đỏ bình men quê. Bên cạnh đó là những câu thơ đa tình của ông cứ như đùa như trêu mọi người, nhưng vẫn giữ được độ thanh của nó: Tàn canh đứng…/
Rạng Đông vừa lọt/ Cửa khép hờ toang toác gió thu (Bênh); Ấp vú mình trần con dế trũi/ Cành tre trải áo nép thân hình (Tắm đêm); Em trao mình thỏa khát khao/ Dấn thân lạc lối mƣa rào hoàng hôn (Thể phách tinh anh)… Chất ngôn ngữ dân ca Quan họ kết hợp với xúc cảm nhục dục, hay nói cách khác là kết hợp các biểu tượng dục tính trong cái huê tình, diễm lệ mà vẫn thấy có sự linh thiêng của người Kinh Bắc cũng tạo nên thế đứng ổn định trong câu thơ Hoàng Cầm: Nhớ mƣa Thuận Thành/ Long lanh mắt ƣớt/ Là mưa ái phi/ Tơ tằm óng chuốt/ Ngón tay trắng mướt/ Nâng bồng Thiên Thai (Mưa Thuận Thành). Thơ Hoàng Cầm đã tạo được ấn tượng trong lòng độc giả một phần cũng bởi bằng chất ngọt ngào mê đắm ấy.
Điều đó cho thấy, việc sáng tạo thơ của Hoàng Cầm, nếu nói không cực đoan thì đó chính là sự sáng tạo để lạ hóa ngôn ngữ và quá trình làm mới ngôn ngữ dựa trên cơ sở ngôn ngữ dân gian và bác học vùng Kinh Bắc. Đây là một trong những yếu tố góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là con chữ vô hồn mà là hiện thân của tư tưởng, tình cảm, là mối tương giao giữa nhà thơ với người đọc, là sự khẳng định phẩm chất thi nhân của nhà thơ giữa cuộc đời.
Thứ hai, là sự kết hợp ngôn ngữ của các biểu tƣợng văn hoá:
Thơ Hoàng Cầm được trang hoàng khá lộng lẫy bởi các ánh xạ mỹ kim của thế giới nghệ thuật ngôn từ được tinh luyện từ các yếu tố văn hoá truyền thống và hiện đại, từ dân gian đến bác học qua sự sàng lọc, sáng tạo, chưng cất của bản thân nhà thơ, nó tạo nên một hợp chất đặc biệt, có cấu trúc đặc biệt của hồn vía văn hóa Kinh Bắc. Với Hoàng Cầm, cấu trúc đặc biệt ấy được tri nhận từ việc dùng những ký hiệu ngoài ngôn ngữ trong thơ để tạo không gian thị giác cho văn bản thơ. Đây là việc làm không mới cả về lý luận và sáng tác, tuy nhiên cái mới của thơ Hoàng Cầm, cái tư cách hậu hiện đại của nó lại nằm ở chỗ nó có sự chuyển hoá, giao lưu giữa ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ, giữa ngữ pháp của ngôn ngữ văn chương bình dân với siêu liên kết của biểu tượng văn hoá bác học trong chất liệu thơ ca truyền thống và rồi giải phóng những tập tính văn hoá cũ để thăng hoa trong biểu tượng văn hoá mới mang nội dung trí tuệ và thời đại.
Cái mới trong sự sáng tạo ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm còn là ở chỗ nhà thơ tự biến sự đọc, sự nghiên cứu của mình thành thơ và ngược lại. Dường như tác giả cố tình tạo ra một cơ chế rubic thơ để độc giả tuỳ ý xoay về vô tận các cấu hình, biểu tượng, mỗi cách xoay lại làm hiện thêm những tương quan mới, những vấn đề nghệ thuật và những thế năng văn hoá và biểu tượng mới. Ví dụ ngôn ngữ trong những bài thơ Cây Tam cúc, Lá Diêu Bông, Quản vườn ổi, Nước sông Thương… đều là những điển hình thực tế, nó vừa mang dáng dấp ngôn ngữ thơ của các biểu tượng văn hoá phương Đông với tính chất hàm súc, lửng lơ, nương theo khơi gợi mà vẫn không bị gò bó, áp đặt. Hơn thế nữa, tính chất lững lờ nước đôi, giao thoa để tạo nên sự cộng sinh, vì ông ý thức được việc mượn hình tượng cũ để ký thác hồn vía mới là đặc trưng của văn hoá Việt như: Gió lông ngỗng, Trai thời Trần, Thi sợi bún, Nước sông Thương, Hội Vật.... Theo đó, nhiều từ ngữ cũng đảm nhận việc chuyển tải tâm thức Việt thông qua hình tượng thơ: sự quan tâm đến ngôi thứ, vai trò của tình cảm và tính hung bạo bộc phát; tính chất quá độ giữa tự do và xiềng xích (với việc vừa tô đậm những ngôi thứ ngữ pháp như muốn xiềng nhiều bài thơ vào những luật tắc nghiêm nhặt, vừa thả nổi ngôn từ thoát khỏi luật ngữ pháp để tham dự vào biểu tượng mới với những luật chơi mới phá huỷ ngữ pháp kia) rất tiêu biểu cho cốt cách lưỡng thê của người Việt và rất điển hình cho thực trạng xã hội Việt Nam ngày nay. Do đó có thể nói không cường điệu rằng thơ Hoàng Cầm mang một phong cách thơ đậm đà tính dân tộc cũng là vì vậy.
Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, có lẽ Hoàng Cầm được coi là nhà thơ sử dụng nhiều các biểu tượng văn hoá trong thơ hơn cả. Vẫn là chất liệu của ngôn ngữ truyền thống, nhưng nhà thơ đã xây dựng lên cả một hệ biểu tượng mang giá trị văn hoá cao như: thực vật, sông ngòi, núi đồi, người mẹ, người anh hùng, văn hoá Quan họ, lễ hội hoặc các biểu tượng khác như: mƣa, đêm, yếm, men, tình yêu... Chính điều đó đã làm nên việc xây dựng các biểu tượng văn hóa mới trong thơ ông dựa trên những căn cốt sẵn có của truyền thống văn hóa quê hương.
Thứ ba, là sự kết hợp ngôn ngữ của vô thức và ý thức, giữa bản ngã và ngoại cảnh:
Quá trình nhà thơ Hoàng Cầm đi tìm chữ và nghĩa để làm hành trang thơ cho mình chính là hành trình thăm thẳm của sự phân ly, hội tụ giữa bản ngã và ngoại cảnh, giữa vô thức và ý thức, giữa vô ngôn và chuẩn mực ngôn ngữ xã hội… Phải là người được thẩm thấu các giá trị văn hóa đích thực, cốt lõi, qua màng lọc tư duy siêu cảm mới
tạo nên những câu thơ, bài thơ theo kiểu vô thức hay đến như vậy. Do vậy sáng tác theo kiểu vô thức của Hoàng Cầm là cái vô thức được in dấu từ tiềm thức văn hóa mang tính cội nguồn, chứ không giống sáng tác vô thức kiểu của Hoàng Hưng và một số nhà thơ khác. Câu thơ, ý thơ Hoàng Cầm luôn dự trữ nguồn tư duy thụ cảm văn hóa đối với bạn đọc, nhà thơ dựng lên thế giới của ngôn từ và ngôn từ hồi sinh trong thế giới tâm linh của bạn đọc. Nhà thơ sinh ra chữ, nghĩa và ngược lại chữ, nghĩa cũng sinh ra nhà thơ. Ông luôn thả hồn theo sự dẫn dắt của ngôn ngữ thi ca vô thức, thoát khỏi vũng lầy của lý trí hướng về sự nguyên sơ của siêu cảm và sự mê đắm của thứ ngôn ngữ sơ khai mà loài người đã và đang lãng quên. Hoàng Cầm là người dự cảm chữ và có ý thức sâu sắc về ý nghĩa của ngôn từ. Vì vậy, ngôn ngữ thi ca quyến rũ tâm hồn nhà thơ, giúp ông từ bỏ thế giới đang sống (trong những khoảnh khắc sáng tạo) để đắm chìm trong vô thức của thế giới siêu văn bản với sự mông lung của những khoảnh khắc ngôn từ và độ âm vang của nhịp điệu trái tim hoà nhập với nhịp điệu của đời sống (cả quá khứ và hiện tại) (điều này lý giải sự đồng điệu giữa trái tim người nghệ sỹ với vùng thẩm mỹ quê ông). Nhà thơ tạo sự lệch chuẩn tối đa về ngôn ngữ so với chuẩn mực ngôn ngữ xã hội và làm co giãn ý nghĩa, cấu trúc của ngôn từ, giúp chúng sinh sôi bất tận và bùng phát mãnh liệt. Sự chế tác ngôn ngữ thi ca bao giờ cũng gắn liền và tỷ lệ thuận với tầm vóc tư tưởng, nghệ thuật của nhà thơ. Những nhà thơ tài năng đều là những người có tài năng trong việc sáng tạo và làm mới hệ thống ngôn ngữ, tuy nhiên đó phải là việc làm mới ngôn ngữ dựa trên cơ sở ngôn ngữ truyền thống của vùng miền, dân tộc.
Bakhtin từng viết đại ý: Khi những dạng thức thi ca đạt đến hạn độ tột bậc của chúng về phong cách, thì ngôn ngữ thi ca thường trở thành thứ ngôn ngữ quyền uy, giáo điều và bảo thủ, tự ngăn cách mình khỏi ảnh hưởng của những phương ngữ xã hội ngoài văn học. Chính vì thế trên mảnh đất thi ca có thể xuất hiện ý tưởng về một “ngôn ngữ thi ca” đặc biệt, một “ngôn ngữ của thần linh, một “ngôn ngữ thi ca của các giáo sĩ”... Nhìn chung, có thể thấy giữa nhà thơ (nói chung) và ngôn ngữ thi ca có sự thống nhất toàn vẹn, không có khoảng cách, mọi ranh giới đều bị xoá nhoà. Nhà thơ Hoàng Cầm xác lập mối tương giao với con người và vũ trụ thông qua thế giới ngôn từ của riêng ông. Sự mã hóa ngôn ngữ thi ca diễn ra trong quá trình sáng tạo và trên văn bản luôn là sự bí ẩn đối với cả nhà thơ và bạn đọc. Chính vì thế, ngôn ngữ thi ca của ông có sức lay động, khơi gợi những vùng sâu thẳm của vô thức mà không ngôn ngữ nào sánh nổi, cái kênh ngôn