Biểu tượng người mẹ

Một phần của tài liệu Những hình ảnh và ý hay trong thơ hoàng cầm (Trang 94 - 100)

Chương 2: THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM

2.3. Biểu tượng con người Kinh Bắc

2.3.2. Biểu tượng người mẹ

Mẹ là mẫu - là Mẹ của muôn loài. Muôn loài phải vươn lên bản chất mẫu để trường tồn, để vô hạn. Mẫu là hiện thực tinh thần của bản nguyên nữ tính, là sức sống biểu hiện ở khắp mọi nơi và sức sống này chính là bản nguyên tinh thần thể hiện qua hình hài phụ nữ. Trạng thái bản nguyên của Thánh mẫu là người mẹ và là trinh nữ, thể hiện đồng thời khả năng của thế giới và niềm cực lạc thần thánh. Trong phân tâm học hiện đại, biểu tượng người mẹ có giá trị một mẫu gốc. Người mẹ là dạng thức đầu tiên của anima mà mỗi cá thể con người sở nghiệm, tức là cái vô thức Người mẹ còn tượng trưng cho bản năng đã thăng hoa ở mức hoàn hảo nhất và một sự hoàn hảo nhất của tình yêu thương, dinh dưỡng, sự nồng ấm, sự an toàn của chỗ trú thân...

Loài người sống cũng luôn phải hướng về mẹ. Tình mẹ là trường cửu, là bất tuyệt. Đó là một ý nghĩa bao trùm và biểu hiện những giá trị nhân sinh quan, thế giới quan về sự toàn vẹn của triết lý ấy: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra (ca dao).

Có thể nói, hình tượng người mẹ là biểu tượng tinh thần, một trong những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam. Hình tượng ấy vừa phản ánh khí thế hào

hùng của dân tộc, vừa là biểu trưng của văn hóa truyền thống và hiện đại của nhân dân Việt Nam. Như một nỗi niềm ân nghĩa thiêng liêng, xưa cũng như nay, trong quan niệm về Bà mẹ - Tổ quốc của người Việt Nam là hướng về cội nguồn, hướng về người mẹ đã sinh ra dân tộc này, con người của đất nước này. Đó là một trong nhưng biểu trưng đẹp nhất, sáng chói nhất, tượng trưng sâu sắc nhất về hình tượng Tổ quốc. Người mẹ, một hình tượng có khả năng khái quát được tầm vóc, phẩm chất của Tổ quốc Việt Nam. Nó, thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà anh dũng, kiên trung, giản dị, đau thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và tươi thắm vô ngần. Những bà mẹ, người chị ấy đã làm nên chân dung Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam.

Hình tượng người mẹ không chỉ xuất hiện trong thơ Hoàng Cầm, mà nó nảy sinh từ trong sâu thẳm của văn học dân gian, văn học cổ điển Việt Nam. Tuy nhiên, qua thơ Hoàng Cầm, qua thơ ca cách mạng giai đoạn này, mới được thể hiện một cách rõ nét và tập trung nhất. Hình tượng người mẹ đã xuyên suốt trong thơ Hoàng Cầm và tỏa sáng như chất lân tinh. Đó là những hình ảnh tiêu biểu kết tinh thành chân dung Mẹ.

Hình tượng người Mẹ xuất hiện khá nhiều trong thơ ca Việt Nam hiện đại, như trong thơ của Tố Hữu, Xuân Quỳnh... Có thể nói, phần nhiều đời thơ Hoàng Cầm được khơi nguồn từ hình ảnh của người mẹ. Mẹ luôn là nơi để nhà thơ ký gửi tâm hồn mình, dù đi đâu, ở đâu ông cũng luôn nhớ về mẹ như nhớ về một kỷ niệm đằm thắm mà dịu ngọt, với niềm nhớ thương vô hạn. Ý niệm đó thường không thể tách rời sự yêu thương.

Mà tình thương là chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là an lành. Cũng dễ hiểu vì ông vốn là thi sĩ “Theo dòng mẫu hệ”. Hoàng Cầm làm những bài thơ về mẹ, bài nào cũng thấy hay, cũng chất chứa nỗi niềm yêu thương, và nó như những lời hát ca ngợi công lao mẹ.

Theo khảo sát của chúng tôi, trong tập thơ chính, tập thơ cột sống của ông - Về Kinh Bắc có tới 34 lần trên 48 bài thơ tác giả trực tiếp nhắc đến hình ảnh người mẹ. Tại sao Hoàng Cầm nói nhiều tới Mẹ như vậy? Đúng như tên tập thơ - Về Kinh Bắc - là về với quê hương, mà “nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng người Mẹ. Mẹ là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương”, huống chi mẹ nhà thơ “vốn là một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “lúng liếng” thật tinh tế, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển thanh tao” [17, tr.195]. Hơn nữa, mẹ ông lại là người con gái hát quan họ hay nổi tiếng, “năm nào cũng được các bà lão làng Bựu Sim - quê gốc mẹ tôi - khen thưởng”... Và như thế, Hoàng Cầm đã được thừa hưởng dòng máu

nghệ thuật dân ca quan họ từ người mẹ vào thơ mình. Mẹ là biểu tượng của cả một kho tàng yêu thương dịu ngọt, bầu trời của hạnh phúc và giản dị, của thiêng liêng và cao quý mà nhà thơ đã bơi lội, đằm mình trong thế giới ấy. Điều đó đã tạo nên những ảnh hưởng của văn hoá quan họ cho sáng tác thơ ông ở tập này. Về Kinh Bắc (1959 - 1960) cũng chính là tập thơ để thi sĩ “Dâng hương hồn mẹ trong tâm trạng của đứa con muốn trở về với Mẹ quê hương:

Ta con chim cu về gù rặng tre đƣa nắng ấu thơ về sân đất trắng đưa mây lành những phương trời lạ Về tụ nóc cây rơm...

Ngay nhịp một - Khấn nguyện - tác giả cũng coi đó như một nén tâm nhang để chia sẻ với mẹ những gánh nặng nhọc nhằn trong cuộc đời. Trong đó Đêm thổ là bài mở đầu cho tập thơ, cũng là lời mở đầu cho nỗi nhớ của người con xa quê nay trở về với đất Mẹ yêu thương. Quê hương và Mẹ luôn là bầu sinh quyển chứa chan những tình cảm trong tâm hồn nhà thơ. Trong phần Vĩ thanh của tập Về Kinh Bắc ông tâm sự “những buổi sớm mai, chích choè trên cây mít, con chèo bẻo, con bói cá ở cọc cầu ao, tiếng chim cu ngày mùa, ríu rít vợ chồng chim én đầu hồi mái nhà tranh tre thuở bé... bây giờ đâu?

Nhớ mà buồn. Thời gian đã đuổi chúng ta đi về đâu, hay chúng bây giờ không thích chơi với tôi nữa? Hơn 70 năm rồi, cứ nhớ đến bầu sinh quyển ấy là trong lòng tôi bỗng nao nao một cuộc hồi sinh... vậy là chúng đi vào thơ tôi từ bao giờ tôi chẳng biết”. Và khi nhà thơ đã dâng đầy nỗi nhớ ấy trong tâm hồn thì cũng là lúc tuôn tràn nó thành những vần thơ đầy xúc động về Mẹ: Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc.

Trở về với mẹ là trở về quê hương trong nỗi nhớ bồi hồi. Tình cảm nhân văn cao đẹp trong thơ ca là mối quan hệ sâu sắc giữa nhà thơ và cuộc đời. Tình cảm này được thể hiện khá sâu đậm trong phong trào thơ ca lãng mạn 1932 - 1945 nói chung. Đó là nỗi buồn khi phải chia xa quê hương, xót xa trước cảnh quê hương bị thiên tai địch hoạ, bị chiến tranh tàn phá liên miên, nên họ phải cảm thông chia sẻ với số phận của những con người bất hạnh và luôn hướng về tình cảm gia đình - mẹ con và hướng về chiều sâu của cội nguồn văn hoá - lịch sử dân tộc với những ẩn ức tình cảm khác nhau. Chính vì thế mà khi Hoàng Cầm Về Kinh Bắc là trở về với những kỷ niệm của tuổi thơ, của ký ức nhưng luôn được hâm nóng trong huyết quản và trái tim của nhà thơ:

Chiều xƣa giẻ quạt voi lồng

Thân cau vụt vẫy đuôi mèo trắng mốc

Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông (Đêm thổ).

Viết về mẹ, Hoàng Cầm chìm sâu trong những dòng cảm xúc không dễ gì dứt ra được. Ông miêu tả bằng thứ ngôn ngữ hết sức tình cảm, chân thành: cúi lạy mẹ, bế em về nằm khoanh lòng mẹ, nhớ sữa mẹ, cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ; được nằm mẹ gối đầu tay; Hơi mẹ ơ hờ, Mẹ ơi... Mẹ là nơi che chở lòng con thơ dại, từ khi trong thai, đến lúc Mẹ đau trở dạ/ Sinh con ra cho đến lúc mẹ không còn nhìn được con nữa. Mẹ là chiếc nôi diệu kỳ ẵm con, đón con trở về bất cứ lúc nào, là nơi để nhà thơ làm điểm tựa tâm hồn, do vậy Mẹ luôn gần gũi, động viên con. Tuổi thơ con muốn gì được nấy, từ những tấm áo. Áo là biểu tượng ái hữu, phúc bẩm, là dấu hiệu chia sẻ tâm hồn cùng một nền văn hóa tinh thần, thể hiện cùng một phong tục. Áo chính là thân thể của con người, mẹ cho con áo chính là cho cái phúc bẩm, thân thể, tinh thần với con: Con tìm những thứ đƣợc rồi đây/ Áo bông đón rét có/ Áo lụa sang hè có/ Mẹ mới may, Mẹ gọi về chia bánh đa... (Đứa trẻ). Con nào thiếu thứ gì? Mẹ luôn là hiện thân của những ngọt ngào, sự ngọt ngào của những lời ru, của dòng sữa... Hoàng Cầm và thơ ca của ông được sinh ra từ chính những sự ngọt ngào ấy:

... À... ơi...

Câu ru mẹ mới Có bàn tay vỗ tóc...

... ngủ đi con...

Nhớ mẹ, Hoàng Cầm thường gọi Mẹ ơi/ Mẹ ơi.... Đó là tiếng gọi của Đứa trẻ đang thổn thức một tấm lòng thương nhớ khôn nguôi. Với mẹ, con bao giờ cũng bé bỏng, dù trong cô đơn hay hạnh phúc thì nhà thơ vẫn như có mẹ ở bên. Mẹ là người luôn dõi theo bước đi của con từ khi con còn chập chững, cả đến khi con đã trưởng thành... Có lẽ biểu tượng gắn bó và xuyên suốt hơn cả đối với người Việt đó là biểu tượng MẸ. Thời mẫu hệ, mẹ là biểu tượng của sức mạnh, là biểu tượng của sự bảo vệ. Mẹ (Thần Mẫu) được khắc trên chuôi dao, tiếp sức cho các chiến binh Đông Sơn. Mẹ là biểu tượng của sự sinh thành con người. Theo truyền thuyết, mẹ luôn gắn liền với các biểu tượng khác nhau; đất mẹ, quả bầu mẹ là những biểu tượng mẹ - người sinh thành; Mẹ Lúa là biểu tượng cho người mẹ nuôi dưỡng. Mẫu Thoải (Mẹ Nước), Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ

Rừng)… là biểu tượng của bà mẹ chở che, phù hộ. Tư duy về mẹ mạnh đến nỗi người Việt đã “mẫu hóa” một số vị Phật. Tứ pháp quyền năng như thế vẫn mang dáng dấp của người phụ nữ. Quan Âm ở Ấn Độ vốn là nam, nhưng vào đến Việt Nam bỗng hóa thành Phật Bà. Rồi Quan Âm nghìn tay nghìn mắt nhìn thấu khắp nỗi khổ của chúng sinh và tế độ muôn loài, hay Quan Âm Tống Tử ôm con trong lòng đau đáu và bất diệt, đó là những biểu tượng sâu sắc nhất trong lòng người Việt. Ở mảnh đất này, chỉ có mẹ mới là người xoa dịu và chở che.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ dành hẳn phần đầu của tập Về Kinh Bắc để nói về hình ảnh người mẹ, về quê hương. Hoàng Cầm nhớ về quê, về Mẹ với tâm trạng thức tỉnh, mê man từ cảnh cũ người xưa, và tất cả nay đều lẩn khuất trong bóng nhân gian cô tịch của một cõi viễn miền xa thẳm khó nắm bắt. Con trở về với Mẹ nên con Khấn nguyện để được mẹ phù hộ. Trong niềm khát khao của nỗi nhớ, hình ảnh người mẹ vừa hiện lên quen thuộc, vừa gần gũi thân thương, xong lại cũng rất xa xôi mờ ảo.

Cái “nhân ảnh” ấy liệu có còn là thực hay đã về với bến quê của đời người? Hình ảnh mẹ nghèo Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa với nụ cười đẹp mê ánh sáng từ Miệng hé hạt na nhoà bến vắng, và sự hy sinh của người mẹ biết đến khi nào con mới đền đáp cho được Gió mát này Mẹ quạt/ từ chênh chếch nẻo tàn trăng (Đợi mùa). Hình tượng thơ đã bị nhoè mờ nét nghĩa thực để tạo nên một dòng cảm xúc trong hư vô trong sự đối lập thực - ảo, xưa - nay. Bao giờ cũng vậy, xưa là cái đẹp, là sự sống, là cái để hướng tới, trong khi đó, nay lại là miền không gian cô quạnh, không gian của chiều sâu lịch sử văn hoá trong nỗi nhớ, của những hồi ức, những kỷ niệm. Nỗi nhớ tràn vào tâm hồn ông như lớp rêu xanh phủ trên nền thềm cũ...

Nhớ và thương yêu mẹ, Hoàng Cầm đều có thơ về mẹ. Trong kháng chiến chống ngoại xâm, mẹ hiện lên tần tảo, chịu thương, chịu khó, gần gũi với bao đức hy sinh vì dân vì nước. Đó là biểu tượng người mẹ với bao phẩm chất lớn lao, thiêng liêng. Đó là điển hình của người phụ nữ, người Mẹ - Việt Nam, Mẹ của mỗi chúng ta. Với mẹ, hy sinh cho các con là hạnh phúc và chẳng cần đền đáp. Hình tượng mẹ Kinh Bắc trong bài Bên kia sông Đuống: Mẹ ta lòng đói dạ sầu/ Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.../

... Mẹ già lại quảy gánh hàng rong/ Bước cao thấp bên bờ tre hun hút... như đang trong bước đường từ miền cổ tích dân gian ra để giúp con vậy. Ý thơ như một ám ảnh nghệ thuật đọng mãi trong tâm hồn bạn đọc. Mẹ được hiện lên trong rất nhiều cung bậc khác nhau, ngôn từ thể hiện giản dị, không đao to búa lớn. Mà giả như giàu có ngôn từ bao

nhiêu đi nữa, nhà thơ cũng không nói được về mẹ hay hơn, nhiều hơn thế. Một đời mẹ thân cò lặn lội, chưa một lần con thấy mẹ thở than, chưa một lần con thấy mẹ thảnh thơi... Nhìn về mẹ, Hoàng Cầm có một cái nhìn lịch sử, thời gian, một thứ thời gian đằng đẵng, chắt chiu, tạo dựng, đắp bồi, để có những định hình trong cốt cách Việt Nam từ thuở Âu Cơ.

Có thể nói trong thơ Hoàng Cầm, biểu tượng người mẹ là một dòng sông - dòng sông mẹ. Dòng sông ấy chảy suốt chiều dài thời gian lịch sử Kinh Bắc, lịch sử Việt Nam 4000 năm, lịch sử kể từ khi Việt Nam có văn hoá đến nay. Sông Mẹ chảy suốt hồn thơ, đời thơ Hoàng Cầm từ khi người con đất Kinh Bắc này biết làm thơ đến nay.

Dòng sông ấy chảy qua các giai đoạn, thời kỳ sáng tác thơ khác nhau nhưng thời kỳ nào cũng độc đáo và giàu bản sắc. Trong các thời kỳ ấy dòng sông tiếp nhận nguồn nước của các sông khác... nhưng mạch chính của nó vẫn từ nguồn Mẹ rồi lại “luân hồi”

đổ về Mẹ - quê hương.

Những biểu hiện về sự hóa thân của người mẹ, người phụ nữ anh hùng vào non sông, đất nước là sự tiếp nối quan niệm truyền thống về con người thiên nhiên, con người vũ trụ của nhân dân ta. Niềm thiêng liêng cao cả của họ đã trở thành biểu tượng văn hóa của dân tộc, những di tích lịch sử muôn đời của non sông, đất nước.

Họ trở thành một lẽ sống bất diệt của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Hình tượng người mẹ Kinh Bắc là nét đẹp của lòng vị tha nhân hậu, thủy chung, là sự biểu hiện sức sống mãnh liệt, ý chí quật khởi của con người nơi đây. Sự miêu tả, cảm nhận về hình ảnh người mẹ qua thơ hoàng Cầm xuất phát từ cội nguồn sâu thẳm của truyền thống văn hóa dân tộc, từ nòi giống Lạc Hồng của mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân. Đấy là phẩm chất đẹp đẽ được tinh lọc từ dòng sữa mẹ của hôm qua và hôm nay. Trở về hòa nhập trong tình biển mẹ, mạch ngầm kia được nuôi dưỡng trong vị mặn ân tình đầy chất trí tuệ và ngời ánh lân tinh. Qua biểu tượng người Mẹ, Hoàng Cầm đã khắc họa thêm một nét đẹp truyền thống của tâm hồn Kinh Bắc, bản sắc văn hóa Việt Nam.

Với tính chất là một biểu tượng văn học, biểu tượng người mẹ trong thơ Hoàng Cầm được xuất hiện ở nhiều cung bậc và được thể hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm, cảm xúc và niềm trân trọng, tự hào khác nhau. Tựu chung lại có thể nói thơ ông viết về mẹ chính là viết về biểu tượng của một nét văn hoá- văn hoá Mẫu của

Một phần của tài liệu Những hình ảnh và ý hay trong thơ hoàng cầm (Trang 94 - 100)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(166 trang)