Đại cương về tác hái của bụi

Một phần của tài liệu MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHOẺ CON NGƯỜI (Trang 174 - 178)

BỤI TRONG MÔI TRƯỜNG LAO ĐỘNG

I. Đại cương về tác hái của bụi

Bụi là một tập hợp nhiều hạt, có kích thước nhỏ bé, tồn tại lâu trong không khí dưới dạng bụi bay, bụi lắng và các hệ khí dung nhiều pha gồm hơi khói mù.

Bụi bay có kích thước từ 0,001μ - 10μ (micron) bao gồm tro, muội, khói và những hạt chất rắn được nghiền nhỏ, chuyển động theo kiểu Brown, hoặc rơi xuống đất với tốc độ không đổi theo định luật Stock. Về mặt sinh học loại bụi này thường gây tổn thương nặng cho cơ quan hô hấp, nhất là bệnh phổi nhiễm bụi thạch anh (silicosis) do thở hít không khí có bụi bioxyt silic lâu ngày.

Bụi lắng có kích thước lớn hơn 10μ, thường rơi nhanh xuống đất theo định luật Newton với tốc độ tăng dần. Về mặt sinh học, loại bụi này thường gây tác hại cho da, mắt, gây nhiễm trùng, gây dị ứng.

Phòng chống bụi là một trong những nhiệm vụ chính của vệ sinh lao động trong các ngành khai thác mỏ, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, giao thông vận tải, làm đồ gốm, đồ sứ; ngành dệt vải, sợi; trồng và chế biến bông, đay, gai.

2. Phân loại

2.1. Theo nguồn gốc

Bụi có thể có nguồn gốc hữu cơ hoặc vô cơ. Bụi hữu cơ như bụi thực vật (gỗ, bông), bụi động vật (len, lông, tóc), bụi nhân tạo (nhựa hóa học, cao su). Bụi vô cơ như bụi khoáng chất (thạch anh, amiăng), bụi kim loại (sắt, đồng, chì).

2.2. Theo kích thước hạt bụi

− Theo Gibbes: Bụi lớn hơn 10μ là bụi thực sự, bụi từ 0,1 - 10μ như sương mù, bụi dưới 0,1μ như khói.

− Theo Burstein: Phân loại theo tính chất thâm nhập đường hô hấp của bụi và theo kích thước:

-Bụi nhỏ hơn 0,1μ lơ lửng trong không khí, không ở lại phế nang.

-Bụi từ 0,1μ - 5μ ở lại phổi, chiếm tới 80 - 90%

-Bụi từ 5μ - 10μ vào phổi nhưng lại được đào thải ra.

-Bụi lớn hơn 10μ thường đọng lại ở mũi.

2.3. Phân loại theo tác hại của bụi Theo Israelson có thể phân loại bụi theo tác hại:

− Bụi gây nhiễm độc chung (chì, thủy ngân)

− Bụi gây dị ứng viêm mũi, hen, nổi ban (bụi bông, gai, phân hóa học, một số tinh dầu gỗ).

− Bụi sinh ung thư (bụi quặng và các chất phóng xạ, hợp chất Crôm, Asen).

− Bụi gây nhiễm trùng (lông xương, tóc)

− Bụi gây xơ hóa phổi (bụi thạch anh, bụi amiăng) 3. Tính chất lý hóa của bụi

3.1. Độ phân tán

Là trạng thái của bụi trong không khí, phụ thuộc vào tỷ trọng của bụi (sức năng) và sức cản của không khí. Bụi hạt to rơi nhanh, bụi có kích thước nhỏ lơ lửng lâu trong không khí. Tính chất nầy sẽ ảnh hưởng đến việc xâm nhập của bụi vào hệ hô hấp và việc phòng chống bụi. Bụi có kích thước < 5μ xâm nhập đến tận phế nang.

3.2. Điện tích của bụi

Phụ thuộc kích thước và bản chất của bụi, điện tích của bụi khác nhau sẽ ảnh hưởng đến sự di chuyển của bụi trong điện trường, nên khi thiết kế hệ thống thông gió hút bụi bằng điện, cần chú ý đến kích thước hạt bụi

3.3. Tính cháy nổ của bụi

Phụ thuộc tính chất hóa học và kích thước của bụi, bụi càng nhỏ, diện tiếp xúc với oxy càng lớn, dễ bốc cháy khi có mồi lửa.

3.4. Tính lắng bụi do nhiệt

Sự lắng đọng của bụi khi di chuyển trong một ống dẫn từ nóng sang lạnh, tính chất nầy cũng được áp dụng để thiết kế hệ thống thông gió hút bụi.

3.5. Thành phần hóa học của bụi

Bụi có thành phần silic dioxyt tự do cao có tác dụng gây xơ hóa phổi mạnh. Bụi hóa chất gây nhiễm độc chung khi hấp thụ qua da và hệ hô hấp.

4. Tác hại của bụi

Nhờ có hệ thống hô hấp mà ta có thể cản và loại trừ được 90% bụi có kích thước khoảng trên 5μ. Các hạt bụi nhỏ dưới 5μ có thể theo không khí thở vào đến tận phế nang, ở đây cũng được các lớp niêm dịch và đại thực bào ăn và loại ra được khoảng 90% hạt bụi ở phổi. Số bụi còn lại đọng ở đường hô hấp trên có thể gây ra nhiều bệnh.

4.1. Bệnh phổi nhiễm bụi

Là một vấn đề lớn trong bệnh lý nghề nghiệp trong khoảng vài chục năm trở lại đây, chiếm khoảng 40-70% bệnh nghề nghiệp nội thương. Vài số liệu thống kê cho ta thấy rõ tính chất trầm trọng và yêu cầu phòng chống cấp bách bệnh này. Ở Mỹ, từ 1950-1955 đã phát hiện được 12.763 công nhân bị mắc bệnh phổi nhiễm bụi đá (silicose), có 75% bệnh nhân tuổi hơn 50.

Ở Nam Phi đầu thế kỷ 20 có khoảng 30-40% thợ mỏ chết hàng năm vì bệnh phổi nhiễm bụi đá. Riêng năm 1963-1964 theo tài liệu điều tra của tổ chức lao động quốc tế ở mỏ vàng ở Gana với 4300 thợ đã phát hiện được 7% người mắc bệnh silicose, thợ xúc, thợ lò, thợ làm băng chuyền mắc tới 30%.

Ở Việt Nam qua điều tra cho thấy thợ mỏ tỷ lệ mắc bệnh phổi nhiễm bụi than và đá là 0,7-3,5%, thợ lò gạch chịu lửa ở Thanh Trì và Cầu Đuống mắc silicose từ 10,2-12,9%, thợ làm fibrocement nhiễm bụi amiant là 5,5%.

Một số điều tra gần đây cho thấy tỉ lệ bệnh bụi phổi Silic ở miền Trung là 14,08% (N.

N. Cảnh và ctv, 1992). Trong ngành đúc cơ khí, tỉ lệ này ở Việt nam lên đến 40% (N.V. Hoài và ctv, 1992).

Bệnh phổi nhiễm bụi là nhóm bệnh do nguyên nhân nghề nghiệp, gây ra do hít phải các loại chủ yếu là bụi khoáng và kim loại, dẫn tới hiện tượng xơ hóa phổi, làm suy giảm chức năng hô hấp (bệnh bụi phổi bông là một dạng bệnh lý khác, bệnh lý phế quản). Tùy theo loại bụi hít phải mà có các bệnh phổi nhiễm bụi mang tên khác nhau.

4.2. Các bệnh khác do bụi gây ra

- Bênh ở đường hô hấp: tùy theo loại bụi mà gây ra các loại bệnh viêm mũi, họng, khí phế quản khác nhau. Bụi hữu cơ, lông, sợi, gai, lanh dính vào niêm mạc gây ra viêm phù thũng, tiết nhiều niêm dịch; bụi bông, lanh, gai có thể gây co thắt phế quản; viêm, loét trong lòng phế quản. Bụi vô cơ rắn, cạnh sắc nhọn, ban đầu thường gây ra viêm mũi phì đại làm cho niêm mạc dày lên, tiết nhiều niêm dịch làm cho hít thở không không khí khó khăn, vài năm sau chuyển thành thể viêm mũi teo, giảm chức năng lọc giữ bụi, làm cho bệnh bụi phổi dễ phát sinh. Loại bụi crom, arsen còn gây viêm loét thủng vách mũi vùng trước sụn lá mía.

Loại bụi gây dị ứng: bụi bột, bụi len, bột thuốc kháng sinh có thể gây ra viêm mũi, viêm phế quản dạng hen.

Bụi Mangan, phosphat, bicromat kali còn gây bệnh viêm phổi do nó làm thay đổi tính miễn dịch sinh học của phổi.

Một số bụi kim loại mang tính phóng xạ còn gây bệnh ung thư phổi như bụi cobalt, kền, crom, nhựa đường.

- Bệnh ngoài da: bụi đồng có thể gây nhiễm khuẩn da rất khó chữa. Bụi còn tác động lên các tuyến nhờn, làm cho khô da, phát sinh các bệnh da như trứng cá, viêm da, gặp ở công nhân đốt lò hơi, thợ máy, sản xuất xi măng, sành sứ ...

Bụi còn kích thích lên da, sinh mụn nhọt, lở loét như bụi vôi, thiếc, dược phẩm, thuốc trừ sâu, đường.

Bụi nhựa than còn có tác dụng quang học trên vùng da để hở dưới tác dụng của ánh sáng làm da sưng tấy, đỏ như bỏng, rất ngứa, còn làm cho mắt sưng đỏ, chảy nước mắt, các hiện tượng này sẽ không xảy ra nếu làm việc ở trong bóng râm hoặc làm việc về đêm.

- Bụi còn gây ra chấn thương ở mắt: do không mang kính phòng hộ nên bụi bẩn vào mắt kích thích màng tiếp hợp, lâu dần gây ra viêm màng tiếp hợp, viêm mi mắt.

Bụi kiềm hoặc bụi axit có thể gây ra bỏng giác mạc, để lại sẹo lớn làm giảm thị lực hoặc mù mắt. Bụi kim loại như phoi bào, phoi tiện bắn vào mắt gây ra các vết thương trên màng tiếp hợp và có thể tổn thương giác mạc, về sau để lại sẹo làm giảm thị lực, nặng hơn có thể làm mù mắt.

- Bệnh ở đường tiêu hóa: bụi đường, bột có thể làm sâu răng, do bụi động lại trên mặt răng, bị vi khuẩn phân giải thành axit lactic làm hỏng men răng.

Bụi kim loại, bụi khoáng to, nhọn, cạnh sắc vào dạ dày có thể có ảnh hưởng, gây rối loạn tiêu hóa.

5. Các biện pháp phòng chống bụi

Bụi trong sản xuất gây nhiều tác hại cho sức khỏe người công nhân, đa số các bệnh phổi nhiễm bụi đều là những bệnh nặng, phát hiện khó, chưa có thuốc chữa, cho nên vấn đề đề phòng chống bụi để phòng bệnh phổi bụi là vấn đề rất quan trọng. Biện pháp đề phòng tích cực là chống bụi nơi làm việc.

5.1. Biện pháp kỹ thuật

- Giữ bụi không cho lan tỏa ra ngoài không khí, cơ giới hóa, tự động hóa các quá trình sinh bụi, để công nhân không phải tiếp xúc với bụi. Đây là biện pháp cơ bản nhất, Ví dụ: tự động hóa trong quá trình đóng bao để nguyên liệu trong sản xuất vật liệu xây dựng, xi măng, vận chuyển bằng băng chuyền trong ngành dệt, ngành than, khai thác mỏ, dùng các tấm che kín các máy móc tạo ra bụi, kèm theo các máy hút bụi tại chỗ, chỉ chừa chỗ thao tác tối thiểu cho nhu cầu kỹ thuật (trong máy mài, cưa đĩa, máy nghiền đá v.v.)

Trong khai thác mỏ người ta còn dùng khoan ướt, làm ẩm, hạn chế việc sinh bụi. Kết quả điều tra cho thấy, nếu khoan khô 1cm3 không khí có 5983 hạt bụi, khi khoan ướt chỉ còn 1734 hạt.

Khi khai thác mỏ bằng mìn, có thể dùng bao nước bằng ni lông làm lắng bụi, giảm nồng độ bụi ở nơi sản xuất.

- Thay vật liệu sử dụng nhiều bụi độc bằng vật liệu ít bụi độc (dùng đá mài nhân tạo có ít dioxit silic thay thế cho đá mài tự nhiên nhiều SiO2).

- Sử dụng hệ thống thông gió, hút bụi, trong các xưởng nhiều bụi.

- Để đề phòng bụi cháy nổ, cần loại trừ điều kiện sinh ra nổ:

+ Theo dõi nồng độ bụi để không đạt tới mức có thể gây nổ được, đặc biệt là trong các ống dẫn và máy lọc bụi.

+ Cách ly mồi lửa, tia lửa điện, đèn chiếu sáng ở mỏ than, phải hết sức cẩn thận.

Người ta đã chế ra một loại bột chống cháy (đất sét, vôi) có màu sắc rắc lên trên bụi than đá bám vào vách và sàn để chống nổ.

5.2. Biện pháp phòng hộ cá nhân

Phòng chống bụi bằng quần áo, mặt nạ, khẩu trang chống bụi, tùy theo điều kiện từng nơi, từng lúc mà dùng. Những nơi có bụi độc, quần áo phải kín, may bằng vải bông để bụi khỏi xâm nhập vào cơ thể, dùng thêm găng tay cao su để chống bụi.

Một loại mặt nạ chống bụi, hoặc dùng khẩu trang cũng có thể cản được bụi đáng kể.

Loại khẩu trang chống bụi kiểu có diện tích chống bụi khoảng 250 cm2 bằng vải tổng hợp đặt giữa 2 lớp vải dệt kim, có hiệu quả lọc được gần 100%.

Tăng cường chế độ vệ sinh cá nhân thường xuyên và triệt để, nhất là nơi có bụi khí độc (chì, thạch tín), không được ăn uống, hút thuốc, nói chuyện khi làm việc, làm xong phải tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo lao động bằng quần áo sạch.

5.3. Biện pháp y tế

Để phòng chống bụi, cán bộ y tế và an toàn lao động phải có trách nhiệm tổ chức khám tuyển, khám định kỳ, quản lý sức khỏe công nhân làm việc với bụi, giám định khả năng lao động và bố trí nơi lao động thích hợp cho người mắc bệnh.

Khám tuyển nhằm loại trừ những người mắc bệnh lao phổi và các thể lao khác, các bệnh đường hô hấp trên mạn tính, bệnh viêm xoang, các bệnh phổi, cơ hoành, cơ tim. Bệnh van tim và cao huyết áp không được làm với bụi vì bệnh sẽ nặng thêm.

Khám định kỳ, mỗi cơ sở sản xuất với bụi 6 tháng hoặc 1 năm khám định kỳ 1 lần để phát hiện sớm bệnh phổi nhiễm bụi.

Giỏm định khả năng lao động và bốù trớ nơi lao động thớch hợp cho người mắc bệnh hoặc cho nghỉ việc vì mất sức và được hưởng các chế độ đền bù tương xứng.

Quản lý theo dõi và điều trị cho người mắc bệnh.

5.4. Các biện pháp khác

Nghiên cứu chế độ làm việc thích hợp cho một số ngành nghề có nhiều bụi như rút ngắn thời gian làm việc trong ngày và tăng thêm giờ nghỉ hàng năm.

Khẩu phần ăn cho công nhân làm ở nơi nhiều bụi cần có nhiều đạm, nhiều sinh tố, nhất là sinh tố C, bằng cách ăn nhiều rau xanh, hoa quả tươi.

Tổ chức tốt điều kiện an dưỡng, nghỉ ngơi cho thợ tiếp xúc với bụi.

Một phần của tài liệu MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHOẺ CON NGƯỜI (Trang 174 - 178)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(184 trang)