Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa và các tổ chức liên minh quốc tế

Một phần của tài liệu Đề cương cao học quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại việt nam (Trang 97 - 101)

PHẦN II: MỘT SỐ BÀI ĐỌC

4. Xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa và các tổ chức liên minh quốc tế

Đó là một xu thế ngày càng phát triển với những nét nổi bật là:

1/ Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới. Thương mại thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng 10 lần trong 100 năm trước đó (1850-1948).

Thương mại thế giới tăng nhanh hơn sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên.

Ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là những nước có nền kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5%

dân số thế giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu thế giới.

Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.

Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thông với những máy tính, vệ tinh viễn thông, sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành một hệ thống liên lạc toàn cầu. Tốc độ thông tin toàn cầu được tăng lên hàng triệu lần. Không có hệ thống này thì không thể ra đời những công ty xuyên quốc gia và không thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới.

2/ Tính quốc tế hoá cao của nền kinh tế thế giới còn được nâng cao trong vai trò ngày càng lớn của các Công ty xuyên quốc gia (CTXQG). Năm 1960, 200 CTXQG lớn nhất thế giới chiếm 17% tổng sản phẩm của toàn thế giới, năm 1984, 200 Công ty này chiếm 26%, dự đoán đến năm 2000 các CTXQG sẽ chiếm 50% tổng sản phẩm thế giới. Năm 1985 có 600 CTXQG có số vốn trên 1 tỷ đô la, với tổng doanh số 3000 tỷ đôla, với tổng số công nhân là 50 triệu người. Nếu như các nước chậm phát triển có quan hệ tốt với các CTXQG thì có thể tranh thủ được vốn, kỹ thuật cũng như sự phân công lao động trong nền kinh tế thế giới, có lợi cho việc phát triển kinh tế với tốc độ cao. Xã hội thông tin là một nội dung quan trọng của quốc tế hóa nền kinh tế thế giới.

Các CTXQG thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa trên thế giới, ngược lại quá trình toàn cầu hóa lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các CTXQG và chiến lược kinh doanh của họ, kể cả đưa tới làn sóng

sáp nhập chúng để trở thành các CTXQG siêu lớn với bao hệ quả tích cực và tiêu cực. Gần đây, vào những năm cuối cùng của thế kỷ, làn sóng sáp nhập của các CTXQG tăng lên nhanh chóng.

Nếu từ năm 1980 đến năm 1989 ước tính tổng giá trị các vụ sáp nhập và mua bán vào khoảng 1.300 tỷ đôla thì riêng năm 1998 đã có tới 7700 vụ sáp nhập với tổng giá trị lên đến 1200 tỷ đôla.

Trong đó có những cuộc "hôn nhân" lớn về kinh tế như của hai Công ty dầu mỏ khổng lồ Exxon sáp nhập với Mobil với giá trị 77,3 tỷ đôla, tạo thành công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới. Hoặc Travellers sáp nhập với Citicorp, với trị giá 72,6 tỷ đôla, nhằm tạo ra tập đoàn tài chính khổng lồ cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đầu tư, bảo hiểm... Tập đoàn mới này sẽ có tổng tài sản khoảng 700 tỷ đôla. Hai ngân hàng Mỹ Bank America và Nations Bank sáp nhập với trị giá 61,6 tỷ đôla... "Nhờ cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba với mũi nhọn là công nghệ tin học mà các CTXQG, đa quốc gia được phát triển thành một hệ thống toàn cầu- tạo ra "cốt vật chất"

cho xu thế toàn cầu hóa" (9).

3/ Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ do quá trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới.

Từ đầu những năm 70, hoạt động về ngân hàng trên thế giới tăng với tốc độ 20% hàng năm, nhanh hơn tốc độ phát triển thương mại thế giới và hơn tốc độ phát triển của tổng sản phẩm thế giới nhiều lần. Gần đây, những trao đổi về tiền tệ tăng lên rất nhiều, gấp 20 lần trao đổi về thương mại. Trao đổi về tài chính và tiền tệ là 350 tỷ đôla mỗi ngày. Năm 1988, 10.000 tỷ đôla đã vượt biên giới quốc gia để đầu tư ở nước ngoài.

Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành toàn cầu hóa.

Với việc xóa bỏ phân công lao động trên sự phân chia thế giới thành những khu vực độc quyền của chủ nghĩa thực dân và sự phân chia thế giới thành hai hệ thống xã hội đối lập, nền kinh tế thế giới được quốc tế hóa và toàn cầu hóa đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Bên cạnh mặt quốc tế hóa, nền kinh tế thế giới còn có quá trình khu vực hóa trên thế giới.

Ngày nay hầu như ở khắp các lục địa, khu vực đều có các tổ chức liên minh kinh tế với những quy mô lớn, nhỏ khác nhau. ở châu Âu, lớn nhất là Thị trường chung châu Âu hình thành từ 1975. Tháng 12/1992 Hiệp định Mastricht thành lập Liên minh châu Âu (EU), thành lập liên minh kinh tế và quyết định thống nhất về tiền tệ và phát hành đồng tiền chung EURO vào tháng 1/1999. 24 nước công nghiệp phát triển thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD vào tháng 12/1960 và nay bao gồm 29 nước. ở châu Mỹ, năm 1994 thành lập Thị trường tự do thương mại Bắc Mỹ (Mỹ, Canađa, Mêhicô) và đang mở rộng cả châu Mỹ thành một thị trường tự do. Trước đó, năm 1975 các nước Mỹ La tinh thành lập Tổ chức hệ thống kinh tế Mỹ La tinh

(SELA) với 26 nước thành viên nhằm phối hợp các kế hoạch phát triển, tạo điều kiện cho những quá trình liên kết và trao đổi thông tin giữa các nước. ở Đông Nam Á, tổ chức ASEAN được thành lập năm 1967, đã trở thành ASEAN-10 và hình thành một khu vực thương mại tự do (ASEAN-AFTA) trong vòng 15 năm. Năm 1985, bảy nước ở Nam Á và Ấn Độ, Pakixtan, Băngla Đét, Nêpan, Sri Lanca, Butan và Cộng hòa Manđivơ thành lập Hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) với mục tiêu là góp phần phát triển kinh tế và văn hóa, tiến bộ xã hội ở Nam Á thông qua sự hợp tác nhiều bên. Năm 1989, ở châu Á- Thái Bình Dương cũng đã hình thành khu vực hợp tác kinh tế APEC gồm 21 nước (thuộc Đông Bắc Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Nam Thái Bình Dương và ASEAN). Tháng 3/1996 Hội nghị cấp cao châu Âu và châu Á (ASEM) gồm 25 nước ở châu Âu và châu Á cộng thêm Uỷ viên Ban châu Âu (EU) lần đầu tiên nhóm họp nhằm liên kết kinh tế hai khu vực lớn trên thế giới.

Bên cạnh xu thế quốc tế hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới, xu thế mở cửa hợp tác đồng thời cũng có xu hướng bảo hộ mậu dịch.

Cùng với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hiện tượng nổi bật từ sau chiến tranh thế giới thứ hai là sự ra đời của các tổ chức quốc tế. Hiện nay trên thế giới có hơn 4000 tổ chức quốc tế, trong đó có khoảng 300 tổ chức liên quốc gia. Các tổ chức quốc tế rất đa dạng, chức năng cũng không dừng lại ở việc giải quyết các cuộc xung đột quốc tế và khủng hoảng. Các tổ chức quốc tế quan trọng hàng đầu là Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...

Các tổ chức quốc tế có tiềm năng khó hình dung hết, vai trò của nó được mở rộng ghê gớm. Lực lượng quốc tế tương đối mạnh lên, chủ quyền quốc gia dân tộc tương đối yếu đi có thể là xu thế song hành trong một thời gian dài sắp tới. Đồng thời trong quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế, không ít khó khăn và thách thức đặt ra trước hết đối với các nước đang phát triển. Như trong thương mại thế giới từ sau cuộc khủng hoảng 1973, tỷ trọng ngoại thương của các nước đang phát triển giảm 1/3, giá hàng nông sản và khoáng sản giảm sút, giá hàng công nghiệp tăng lên. Hoặc quá trình toàn cầu hóa đã đưa tới sự phân công lao động có quy mô mới, rộng lớn trên thế giới, nhưng sự phân công lao động giữa các nước giàu và nghèo chưa có sự thay đổi căn bản. Các nước đang phát triển vẫn tiếp tục xuất khẩu nguyên nhiên liệu, còn các nước phát triển tiếp tục xuất khẩu sản phẩm máy móc và phương tiện vận tải. Sự phân công lao động vẫn không có lợi cho các nước đang phát triển. Các công ty xuyên quốc gia siêu lớn củng cố sức mạnh của mình ở các nền kinh tế phát triển và tiếp tục vươn tới các nền kinh tế kém phát triển hơn. Vì vậy, các nước kém phát triển hơn đang được cảnh báo về nguy cơ các CTXQG siêu lớn trở thành những tên thực dân về kinh tế trong thế kỷ XXI. Quá trình tập trung hóa thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa đồng thời sẽ có thể làm xói mòn chủ quyền các quốc gia.

Bàn cờ quốc tế đang sắp xếp lại với những thay đổi to lớn. Nhưng điều đáng lưu ý, như một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh, trong mỗi xu thế lại thường có sự đối lập, ngược chiều nhau được gọi là "cơ cấu song trùng", hơn nữa lại được xem như một đặc trưng cơ bản trong quan hệ chính trị quốc tế hiện nay.

Tình hình thế giới sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới, ít nhất là trong những thập niên đầu thế kỷ XXI?

Trong công trình cuối cùng của đời mình, cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch (1923-1998) đã đưa ra những dự báo: "Trong 25 năm tới từ 1996 đến 2020, có nhiều khả năng không có chiến tranh thế giới, và chạy đua kinh tế toàn cầu sẽ thay thế cho chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Tuy vậy vẫn có khả năng xảy ra chiến tranh cục bộ tuy không nhiều và lớn như trong 50 năm qua. Chiến tranh cục bộ xảy ra chủ yếu là do xung đột dân tộc và tôn giáo.

Các nước lớn đã đi đến chấm dứt chiến tranh lạnh, chấm dứt chạy đua vũ trang, mở ra thời kỳ hòa hoãn, giảm các kho vũ khí, đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua kinh tế. Cuộc đấu tranh và hợp tác trong cuộc chạy đua toàn cầu về kinh tế sẽ là hình thức đấu tranh chủ yếu trên thế giới với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm thay đổi rất to lớn hàng năm nền kinh tế thế giới.

Các dân tộc chậm phát triển trên thế giới sẽ đứng trước những thời cơ rất lớn cũng như những thách thức rất lớn... Hoặc các nước này có thể bỏ qua giai đoạn công nghiệp hóa để đi thẳng vào thời đại thông tin và đưa nền kinh tế phát triển rất nhanh chóng trong 20 năm. Hoặc các nước này lỡ cơ hội và sẽ bị tụt hậu rất xa" (10)

Nước ta cũng nằm trong tình hình ấy.

Tài liệu tham khảo:

(1). Lý Thực Cốc, Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.

(2) Lý Thực Cốc, Sđd, trang 34.

(3) Maridôn Tuarene, Sự đảo lộn của thế giới - địa -chính trị thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 137-138.

(4) Lý Thực Cốc, Sđd, trang 30.

(5) Lý Thực Cốc, Sđd, trang 25.

(6) Maridôn Tuarenơ, Sđd, trang 57, 72.

Một phần của tài liệu Đề cương cao học quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại việt nam (Trang 97 - 101)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(101 trang)