CHƯƠNG 3. XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT, MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP KIỂM ĐỊNH
4.2 Nghiên cứu chính thức
Đối tượng nghiên cứu là nhân viên làm tại các bộ phận nghiệp vụ của các NHTM đóng trên địa bàn Tp. HCM. Nghiên cứu chia đối tượng nghiên cứu thành 2 nhóm làm việc ở
114
các bộ phận cung ứng sản phẩm, dịch vụ chủ yếu của Ngân hàng. Nhóm thứ nhất là nhân viên thực hiện các giao dịch trực tiếp với khác hàng như: huy động tiền gửi, thanh toán và chuyển tiền, cấp tín dụng. Nhóm thứ hai là nhân viên không giao dịch trực tiếp với khách hàng (bao gồm kế toán viên, kế toán trưởng, kiểm soát viên, kỹ thuật viên quản lý hệ thống mạng thông tin). Nhóm nhân viên thuộc bộ phận bảo vệ, an ninh, phòng tổ chức hành chính không thuộc đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu cũng được chia thành 2 nhóm theo thâm niên công tác. Nhóm 1 là các nhân viên làm việc trong ngành Ngân hàng đến 5 năm. Nhóm 2 có thâm niên trên 5 năm. Hai nhóm ngân hàng được lựa chọn nghiên cứu. Nhóm 1 bao gồm Agribank và 04 NHTMCP có sở hữu Nhà nước lớn hơn 50% (VCB, Vietinbank, BIDV, và MHB).
Theo tỷ trọng sở hữu cổ phần của Nhà nước, trong nghiên cứu này gọi những ngân hàng nhóm 1 là NHTM cổ phần Nhà nước. Nhóm 2 là các NHTM cổ phần có sở hữu Nhà nước nhỏ hơn 50%. Trong nghiên cứu này gọi những NHTM nhóm 2 là NHTM cổ phần khác. Chi nhánh NH nước ngoài, NH liên doanh và Ngân hàng 100% vốn nước ngoài không thuộc đối tượng nghiên cứu.
4.2.2 Quy mô mẫu
Có nhiều căn cứ để xác định quy mô mẫu. Ví dụ, căn cứ vào phương pháp phân tích dữ liệu, vào phương pháp ước lượng sử dụng, phương pháp phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính - SEM. Nghiên cứu của tác giả sử dụng phương pháp phân tích SEM. Với phương pháp SEM quy mô mẫu nghiên cứu phải lớn (Raykov và Widaman, 1995; Trích Nguyễn Đình Thọ, 2008). Không có sự thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu về quy mô như thế nào được coi là đủ lớn. Tuy nhiên, tất cả đều có chung nhận định, quy mô mẫu càng lớn càng tốt (Jullie Palland, 2005). Tabachnick và Fidell (2001) khi nghiên cứu về vấn đề này đề xuất quy mô mẫu tới hạn là 300. Trong khi đó Hoelter, (1983) lại cho rằng kích thước mẫu tối thiểu nên là 200 (Trích Nguyễn Đình Thọ, 2008). Steven (1996) cho rằng với cùng một vấn đề nghiên cứu, quy mô mẫu phụ thuộc vào số lượng các nghiên cứu trước đó. Hay nói cách khác, cùng một vấn đề, các nghiên cứu càng về sau quy mô mẫu có thể càng nhỏ. Nunally, (1978) đề xuất kích thước mẫu nên theo tỷ lệ 10 quan sát cho một tham số cần ước lượng, trong khi đó Tabachnick và Fithdell (2001) cho rằng tỷ
115
lệ này tối thiểu là 5:1. Trong nghiên cứu của tác giả, quy mô mẫu lựa chọn dựa vào đề xuất của Tabachnick và Fidell (2001) với tỷ lệ 5 quan sát cho một tham số cần ước lượng.
Với 50 tham số cần ước lượng, kích thước mẫu tối thiểu của nghiên cứu này là 250 (50*5). Do quy mô mẫu càng lớn càng tốt nên quy mô mẫu dự kiến là 600. Tổng cộng 800 phiếu điều tra được phát ra.
Mẫu được chọn theo nguyên tắc thuận tiện, phiếu điều tra được gửi trực tiếp cho các nhân viên làm việc ở các NHTM đóng trên địa bàn Tp.HCM. Một số trường hợp, phiếu điều tra được đề nghị gửi qua thư điện tử. Tổng cộng 800 phiếu điều tra phát ra, thu về 687 phiếu trong đó chỉ có duy nhất 3 phiếu trả lời thông qua thư điện tử. Trong số 687 phiếu, có 104 phiếu bị loại sau quá trình sàng lọc dữ liệu. Những phiếu bị loại là các phiếu thiếu từ hai câu trả lời hoặc trả lời chỉ ở cùng mức điểm duy nhất một cách cực đoan cho tất cả các câu hỏi. Cuối cùng có 574 phiếu hợp lệ được nhập liệu thông tin vào phần mềm SPSS để quản lý và xử lý thông tin. Như vậy, tỷ lệ phiếu điều tra so với biến đo lường đạt mức 11/1. Thời gian thực thực hiện thu thập phiếu điều tra kéo dài 03 tháng, từ tháng 9 đến hết tháng 11 năm 2013. Bảng 4.9 tổng hợp phân bố mẫu theo cơ cấu sở hữu, theo thâm niên công tác của người trả lời, theo tính chất công việc (giao dịch trực tiếp với khách hàng hay không) và theo đơn vị công tác (hội sở và sở giao dịch hay chi nhánh và các phòng giao dịch).
Bảng 4.9 Tổng hợp phân bố mẫu Đơn
vị tính Tỷ lệ sở hữu cổ phần của Nhà nước
Kinh nghiệm Tính chất công việc
với khách hàng Đơn vị NHTM
CP Nhà nước
NHTM CP khác
≤ 5 năm
> 5 năm
Giao dịch trực tiếp
Không giao dịch trực tiếp
Hội sở, sở giao dịch
Chi nhánh, PGD
Phiếu 208 366 404 171 329 245 200 374
% 38 62 70,3 29,7 57,3 42,6 34,8 65,2
Kết quả tổng hợp phân phối mẫu cho thấy mặc dù số lượng mẫu đối với các NHTMCP Nhà nước chỉ chiếm 36,2% nhưng con số này là hợp lý bởi trong số 44 NHTM Việt Nam thì chỉ có 5 NHTMCP Nhà nước. Mẫu được lấy theo cách thuận tiện, ngẫu nhiên. Kết quả có đến 70,3% người trả lời có thâm niên công tác dưới 5 năm. Phân bố mẫu tương
116
đối đều nếu chia theo tính chất công việc của người được phỏng vấn. Cũng do đặc điểm cơ cấu tổ chức của một NHTM, mỗi ngân hàng có 1 hội sở chính và từ 1 đến 2 sở giao dịch nhưng có đến hàng trăm chi nhánh và phòng giao dịch. Vì vậy, tỷ lệ 34,8% phiếu điều tra được thu thập từ các nhân viên làm việc tại hội sở chính và sở giao dịch là tỷ lệ hợp lý.