Thế giới hồn ma hiển hiện

Một phần của tài liệu Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn nguyễn quang thiều (Trang 40 - 51)

Chương 2: THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU

2.1. Thế giới nhân vật kì ảo

2.1.1. Thế giới hồn ma hiển hiện

Ma là hồn người chết hiện về. Có ma hay không? Đó là câu hỏi đến nay vẫn chưa có lời giải đáp chính xác. Riêng trong tâm thức người Việt, người ta tin rằng con người bao gồm phần hồn và phần xác. Khi con người chết đi chỉ mất phần xác còn phần hồn vẫn tồn tại nhưng sang một thế giới khác, thế giới đó tồn tại song song với thế giới cõi dương mà con người đang sống. Người ta gọi đó là cõi âm. Quan niệm trong dân gian dần được đưa vào văn học. Những câu chuyện về hồn ma bóng quỷ đã xuất hiện từ rất lâu đời trong các trang văn học, từ văn học dân gian, văn học trung đại đến văn học đương đại sau này.

Song nếu như trong các truyện liêu trai trước đây, sự quấy nhiễu của các linh hồn khi trở về dương gian thường mang đến cho người đọc cảm giác khiếp sợ thì thế giới hồn ma trong các truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều lại mang đến cho người đọc niềm xót xa, thương cảm, thậm chí cả sự thương nhớ vì gọi là ma nhưng đó là những người thân yêu, ruột thịt của mình. Đó là linh hồn của người đã mất nhưng còn trăn trở với đời nên quay về gặp mặt, đôi khi các hồn ma trở về chỉ để được một lần nếm trải cảm giác yêu thương, có khi sự quay trở về của họ là do tâm nguyện chưa hoàn thành hoặc để giúp đỡ người còn sống, để trả ơn, báo oán...

2.1.1.1. Nhân vật báo oán

Nhân vật báo oán trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều là những linh hồn phải chịu nhiều đau khổ, oan ức khi còn sống. Nên khi chết, hồn ma của họ không thể siêu thoat mà đã quay trở về cõi dương gian để tìm cách trả thù, rửa hận.

Đó là nỗi oan và nỗi đau khi bị làm nhục và giết chết. Trong “Lá bùa trừ ma”, báo oán là hồn ma của một cô gái còn rất trẻ. Vào những đêm trăng mùa

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hạ, cô lại khỏa thân bơi lội trên sông và cất tiếng hát rờn rợn và đôi khi lại có cả tiếng khóc ri rỉ. Nhưng có người không tin đó là ma nên đã đến tán tỉnh và chiếm đoạt thân xác cô và thế là“cô ôm lấy người đàn ông và thè cái lưỡi đỏ như máu liếm vào mặt, ... túm lấy hai chân và cứ thế kéo xuống đáy sông. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người đàn ông nổi lên ở khúc sông làng dưới. Trên mặt người đàn ông chết trôi ấy có một vết đen dài”[56, tr 12]. Đó chính là oan hồn của cô gái xóm Trại. Một đêm, khi cô ra sông tắm, một gã đàn ông đã cưỡng dâm cô rồi dìm chết cô trên sông. Năm ấy cô mới bước sang tuổi 12.

Mọi người nghĩ cô bị chết đuối và gia đình đã mang xác cô về an táng. Cái chết đau đớn, oan ức ấy đã khiến linh hồn cô gái không thể siêu thoát. Vì vậy linh hồn cô đã hiện lên dìm chết những gã đàn ông ham sắc dục như một cách để trả thù cho những đau đớn, tủi nhục khi xưa.

Nỗi đau bị trừng phạt dã man bởi những hủ tục phi nhân tính. Trong

“Người chèo đó bí ẩn”, con đò ma cứ vật vờ ở bến sông,“vừa chèo đò lại chợt cười khúc khích và chợt khóc như trẻ sơ sinh” [56, tr 63], chờ người làng qua sông khi đêm khuya rồi dìm xuống nước. Chỉ người làng mới nhìn thấy người chèo đò. Khi ra đến giữa sông thì “người chèo đò lại bỏ chiếc nón ra. Một cái đầu trọc với gương mặt trắng như vôi và hai hốc mắt tối đen hiện ra”[56, tr 63]. Nhưng có điều kỳ lạ là không có bất cứ người nào ở làng khác bị chết ở khúc sông này. Thậm chí họ đã được chiếc đò ma ấy đưa qua sông an toàn trong đêm khuya vào những buổi chiều mưa giông mù mịt. Khi họ trả tiền thì người chèo đò không nhận mà lặng lẽ quay đò rời bến rồi biến mất như chưa hề có.

Sau khi lật lại mọi chuyện, dân làng mới biết người chèo đò đó là hồn ma của cô gái chửa hoang. Khi phát hiện cô không chồng mà chửa, làng đã phạt vạ cô.

Dù cô van xin sẽ rời khỏi làng không bao giờ trở lại nhưng hội đồng bô lão và dân làng vẫn không chấp nhận. Họ cạo trọc đầu cô, bôi vôi kín đầu, kín mặt,

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

trói cô trên chiếc bè chuối và thả trôi trên khúc sông làng. Và cô đã chết đuối khi chiếc bè chuối bị lật.

Hay nỗi đau khi bị bỏ rơi, ghẻ lạnh bởi những con người vô cảm. Đó là linh hồn của đứa trẻ chết đói trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi”. Một chiều mùa đông năm 1945, trên một đoạn đê sông Đáy chảy qua chợ Đào, có một người phụ nữ nằm chết đói bên rệ cỏ. Nằm cạnh là một đứa bé chừng bẩy tháng tuổi chỉ còn da bọc xương, khóc không thành tiếng. Đứa bé mở to đôi mắt như không còn hồn vía nhìn những người đi qua. Trong đôi mắt tơ non, vô hồn và đang mỗi lúc một giá lạnh ấy vẫn ánh lên một sự cầu cứu. Nhưng mọi người qua đường đều quay đầu bỏ đi. Đôi mắt như đã chết của đứa bé, bóng tối lại sụp xuống.

Và đến chiều tối thì đứa bé từ giã cõi đời. Đứa bé ấy đã chết vì đói, nói đúng hơn là chết vì sự thờ ơ, vô cảm của mọi. Bởi thế mà linh hồn đứa bé không thể rời đi mà luẩn quẩn ở lại đòi những người mẹ cho con bú: “Khi nhập vào những đứa trẻ sơ sinh để bú mẹ thì những người mẹ cảm thấy đau buốt ở đầu vú và dường như sinh khí của họ bị hồn ma hút hết nên họ trở nên xanh xao và dần dần kiệt sức rồi chết”[56, tr 74]. Đứa con của những bà mẹ ấy cũng mất khi nó bước sang tháng thứ bẩy. Khi câu chuyện kinh hoàng ấy lặp lại với người phụ nữ thứ ba thì người làng hiểu rằng có một hồn ma thực sự đang ám ảnh những người phụ nữ trẻ có chồng ở làng họ. Đã có những bà mẹ phải bỏ đi xa nơi khác, thay tên đổi họ và chỉ trở về làng khi con đã lớn không còn bú mẹ nữa.

Cả làng sống trong nỗi sợ hãi.

Đó còn là nỗi đau bị chối bỏ quyền làm người. Cũng giống trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi”, hồn ma trong “Ma cây duối” là một đứa trẻ sơ sinh. Có một cô gái làng chửa hoang đã sinh ra đứa trẻ ấy. Nhưng sợ làng biết chuyện sẽ là nỗi nhục cho gia đình, dòng họ mà cô đã vùi đứa con của mình vào hốc cây duối. Sinh linh bé bỏng vừa chào đời đã sớm bị chối bỏ quyền làm người. Vì nỗi oan ức ấy nên linh hồn đứa trẻ sơ sinh không siêu thoát được, ở lại thành ma trên cây duối: “Thằng bé mắt to như hai cái chén, chỉ có lòng đen, bò thoăn thoắt trên

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

cành cây”[56, tr 130]. Vào những buổi trưa và đêm khuya, tiếng khóc nức nở, ai oán, khi lại như xé vải khiến người nghe dựng cả tóc gáy. Những người đi cầy cấy hay thu hoạch trên những thửa ruộng gần đó không ai dám làm đến chập tối như trước nữa, hoặc tránh xa những thửa ruộng gần đó.

Người đọc không khỏi nhói lòng khi chứng kiến nỗi đau bị chia cắt tình yêu của chàng Trương Chi và nàng Mị Nương trong “Khúc hát dòng sông”.

Gặp câu hát Trương Chi, tuổi dậy thì của bừng dậy như một ngọn lửa, và Mị Nương đã đem lòng yêu người có giọng hát ấy. Chàng Trương sau khi gặp và nghe Mị Nương giãi bày gan ruột cũng mang lòng thương nhớ nàng. Nhưng quan thừa tướng, cha Mị Nương đã không chấp nhận mối lương duyên ấy vì Trương Chi chỉ là “thằng hát rong trên sông”, “kẻ quê mùa chài lưới” không xứng với một Mị Nương “lá ngọc cành vàng” và hơn hết là vì “danh giá” của gia đình quan thừa tướng. Hắn đã ra lệnh đuổi chàng đi ngay khỏi khúc sông này. Tàn độc hơn, khi Trương Chi chống lệnh, hắn còn cho tay chân băm nát thân thể chàng “Xác chàng bị băm nát nổi bập bềnh giữa sông”. Dân làng hò nhau ra vớt thì “cái xác lại từ từ chìm xuống” [53, tr 40]. Về phần Mị Nương, khi nghe tin dữ ấy nàng đã kêu lên, thổ huyết mà chết. Sau khi chàng Trương Chi và nàng Mị Nương chết, thầy dạy kinh sử cho Mị Nương và con các quan đều cáo bệnh lui về quê. Chàng Trương được dân làng làm ma và lập đền thờ bên bờ sông. Mị Nương được chôn cất ngay trong dinh viên thừa tướng “Ít lâu sau trên mộ nàng mọc lên một loại cây, lá xanh, thân mảnh. Loài cây này chỉ nở hoa vào lúc đêm khuya. Những bông hoa màu trắng tinh khiết, tỏa hương thơm nhẹ, đến gần sáng thì hoa tàn”[53, tr 41]. Câu chuyện không đề cập đến việc báo oán, trả thù của người bị hãm hại, nhưng sự rời bỏ của con cái các quan cận thần, cái chết của cô con gái yêu có lẽ là sự trả giá đau đớn, ám ảnh nhất cho những tội ác mà tên quan thừa tướng - một người cha gây ra.

Những linh hồn báo oán trong các câu chuyện kể trên đều có một điểm chung: không phải vô duyên vô cớ mà báo oán; mỗi linh hồn đều có một nỗi ai

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

oán, xót xa, uất hận: Cô gái trong “Lá bùa trừ ma” đã phải chết đau đớn, nhục nhã bởi một kẻ cuồng dâm mà không ai hay biết. Thai nhi chưa chào đời trong

“Người chèo đò bí ẩn” phải chết oan cùng người mẹ xấu số vì một thứ luật làng vô đạo. Đứa bé trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi” đã chết trong đói khát, hay nói đúng hơn là chết do sự vô cảm của con người. Còn đứa bé trong trong “Ma cây duối” thì sớm đã bị chối bỏ quyền làm người cũng bởi nỗi sợ hãi vì trở thành nỗi nhục nhã của cả dòng họ của một bà mẹ hoang thai. Trong “Khúc hát dòng sông”, Trương Chi và Mị Nương đã chết mà không đến được với nhau vì người cha - tên quan tể tướng độc ác, tham hư danh. Và một vấn đề nữa đặt ra ở đây là những linh hồn ấy chỉ báo oán với kẻ gây nên tội. Nhưng khi kẻ tội lỗi ấy biết thành khẩn sám hối, chuộc tội thì oan hồn ấy không còn đeo bám nữa. Viết về những linh hồn báo oán phải chăng chính là cách mà Nguyễn Quang Thiều muốn gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh thói đời: kẻ gây oán bất luận giấu giếm nham hiểm đến đâu cũng không thoát khỏi lưới trời trừng phạt; biết ăn năn, sửa lỗi sẽ nhận được sự khoan dung, thứ tha, tâm hồn sẽ được thanh thản.

2.1.1.2. Nhân vật trả nghĩa

Đền ơn, đáp nghĩa là một nghĩa cử cao đẹp trong đời sống mỗi con người, thiếu nó con người sẽmất đi lòng nhân. Người biết đền ơn, đáp nghĩa là con người sống có trước có sau, “uồng nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo lý ấy đã được nhà văn Nguyễn Quang Thiều đề cập đến một cách nhẹ nhàng, xúc động nhưng đầy thấm thía qua các câu chuyện kể về tấm lòng hiếu thuận của những đứa con trả nghĩa đấng sinh thành; trả nghĩa những yêu thương với người thương yêu của mìnhvà trả nghĩa, biết ơn kẻ đã giúp đỡ mình.

“Ma ăn trộm” là một câu chuyện xác động về tình mẫu tử. Truyện kể về một hồn ma“mặc quần áo trắng đi như lướt đất. Rồi chỉ trong nháy mắt đã vút lên ngọn cau, xé một dẻ cau, rồi lại nhẹ nhàng nhảy xuống đất. Sau khi lấy được cau và một chúc lá trầu, người mặc quần áo trắng lại đi như lướt về gần giữa làng rồi biến mất trong một lối ngõ nhỏ hun hút và tối như mực” [56, tr

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

136]. Điều kỳ lạ ở con ma này là nó không làm hại ai, không trộm những thứ khác đáng giá, chỉ trộm cau và trầu. Nhưng cũng không trộm cả buồng cau, cả giàn trầu mà chỉ lấy chừng dăm quả cau và một chúc trầu không. Và người làng đã giật mình khi thấy trong cái cơi trầu bằng đồng của cụ Doãn sống cô độc một mình lá trầu và quả cau bổ tư còn tươi. Hóa ra, vì thương mẹ còm cõi không người nương tựa, biết rằng mẹ lúc nào cũng thèm ăn trầu nên hồn ma anh con trai cụ Doãn đã đi hái trộm trầu, xé trộm cau về cho mẹ. Còn bà mẹ thì không hay biết cứ cho rằng “Ở đời vẫn còn những người tốt. Thấy con trai tôi mất chẳng ai mua trầu cau cho nên có người thi thoảng vẫn cứ đến cho trầu cau mà chẳng nói gì”[56, tr 140]. Câu chuyện về lòng hiếu thảo của người con đã chết báo đáp công sinh thành dưỡng dục với mẹ đang sống khiến người ta ứa nước mắt. Nó sẽ còn là “câu chuyện của muôn đời nếu loài người còn muốn sống tử tế và có ý nghĩa” [56, tr 141].

“Tiếng gọi đò lúc nửa đêm” lại đưa người đọc tìm đến với những câu chuyện xúc động về sự hi sinh của những người lính - người con trong chiến tranh, về sự khát khao được trở về bên mẹ để báo đến chữ hiếu. Nên cứ vào đêm rằm tháng bẩy, linh hồn những người lính đã hi sinh nằm ở nghĩa trang nào đó ở các tỉnh phía Nam hoặc chưa tìm thấy hài cốt lại gọi đò sang sông“bóng mờ ảo, khoác ba lô trong ánh trăng”. Chính vì thế, người làng đã quyết định lập đàn tế lễ. Sau đó họ dùng con đò kéo tấm vải trắng từ bờ sông bên kia về bến sông làng như là bắc một chiếc cầu để linh hồn những người lính trở về với mẹ, với gia đình mình mà không phải gọi đò suốt đêm như thế.

Tiếp đến là sự trả nghĩa những yêu thương với người thương yêu của mình.

Trong “Người thợ đào giếng”, linh hồn của người chồng đã chết của Doan vì quá yêu thương vợ, không nỡ nhìn thấy vợ đau khổ, vì trách nhiệm với gia đình, vợ con còn dang dở đã trở về dặn dò vợ “sau ngày đoạn tang anh có người đến cưới hỏi chị thì chị hãy đồng ý vì đó chính là anh.”[56, tr 97].... “Anh sẽ ở với mẹ con chị đến khi nào con lấy vợ sẽ đi” [56, tr 103]. Và quả thực như vậy, linh

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

hồn người chồng đã trở về trong hình hài người thợ đào giếng thuê với vết chàm ở giữa lưng. Họ đã sống hạnh phúc bên nhau hơn mười năm, sinh được hai người con gái. Cho đến khi con trai họ cưới vợ được bẩy ngày thì anh vĩnh viễn ra đi.

“Tiếng đập cánh của chim thần” đưa người đọc đến với câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn của Dịu – Lợi – Duyên. Dịu và Lợi đã đính ước với nhau và định ngày tổ chức đám cưới nhưng chiến tranh đã cướp Dịu khỏi Lợi. Thêm vào đó, vết bỏng bom na pan đã khiến hai bàn tay và mặt anh đầy sẹo. Chính trong lúc Lợi tuyệt vọng nhất thì Duyên, em gái Dịu đã xuất hiện. Sự chăm sóc dịu dàng, yêu thương, ân cần của cô đã cho Lợi có cảm giác như Dịu của anh đã trở về, và “kéo anh ngày càng gần cô mà anh không cưỡng nổi”[53, tr 172].

Còn với Duyên là biết bao cảm xúc đan xen, gằng co. Đó là sự đau khổ khi chứng kiến vết thương lòng của Lợi, muốn được bù đắp cho anh; sự dằn vặt, buốt nhói khi nghĩ đến người chị thân yêu của mình, để rồi cô đã nhận ra “Tiếng anh gọi chị trước cô bao nhiêu lần không phải là tiếng gọi mê sảng. Tiếng gọi ấy là tiếng đập của trái tim về minh chứng cơ thể kia có còn tồn tại. Nếu thiếu tiếng gọi ấy nghĩa là anh không còn tồn tại và nếu cô đi khỏi tiếng gọi của anh thì một lần nữa anh sẽ phải chịu đựng nỗi đau mất Dịu đến kinh khủng”[53, tr 178]. Vì thế, cuối cùng cô đã quyết định “bước lại gần anh hơn nữa”. Đặc biệt, trong câu chuyện này, tác giả đã để cho linh hồn của Dịu trở về. Nhưng không phải trách mắng, hờn giận em và người yêu mà để “mừng cho em”, tác hợp cho em và người yêu như một cách trả nghĩa yêu thương cho những người mình thương yêu nhất.

Còn trong “Khúc hát của dòng sông”, chàng Trương Chi đã chống lệnh quan thừa tướng, quyết định ở lại dòng sông này “Tôi không phải là kẻ tham lam mà nhận vàng bạc để rời bỏ nơi này. Hơn nữa, tôi đã mang lòng thương nhớ một người con gái bên sông. Thiếu tiếng hát của tôi có lẽ nàng sẽ đau khổ lắm. Tôi ở lại đây cũng để hát cho nàng nghe”[53, tr 40]. Về phía Mị Nương,

Một phần của tài liệu Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn nguyễn quang thiều (Trang 40 - 51)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(116 trang)