CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CHI NHÁNH TỈNH BẮC NINH
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CHI NHÁNH TỈNH BẮC NINH
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, hệ thống KSNB tại NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh còn
thụ động trong việc phát hiện và ngăn chặn các gian lận và sai sót trong hoạt động ngân hàng. Thực tế cho thấy những biện pháp phát hiện gian lận tài chính phổ biến nhất vẫn mang tính ngẫu nhiên, chẳng hạn như gọi điện theo đường dây nóng, sự tố giác của nhân viên hay sự việc vỡ lỡ và cảnh sát kinh tế đã nhập cuộc. Kiểm soát nội bộ tại CN Bắc Ninh chỉ có ý nghĩa phát hiện, chưa có tác dụng hoàn thiện, chưa phát huy vai trò cảnh báo rủi ro.
Thứ hai, môi trường KSNB tại NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh còn nhiều yếu tố không thuận lợi cho công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ. Thành viên Ban đại diện HĐQT là đại diện sở hữu Nhà nước. Bộ phận kiểm soát nội bộ có mặt tại các chi nhánh mức độ độc lập khách quan không cao do chịu ảnh hưởng, chi phối bởi chi nhánh. Do đó, chưa đạt mục tiêu đảm bảo an toàn trong hoạt động NHCSXH. Điều này có nguy cơ dẫn đến rủi ro kiểm soát.
Thứ ba, trình độ cán bộ làm công tác KSNB không theo kịp sự phát triển quá nhanh của các hoạt động kinh doanh ngân hàng, hầu hết kiểm tra theo phương pháp truyền thống như rà soát, đối chiếu chưa có khả năng phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động, kỹ năng, kinh nghiệm kiểm soát. Thiếu hụt về nguồn nhân lực trong công tác KSNB ngân hàng. Nhân viên chưa nhận thức đầy đủ, chủ quan trong việc tuân thủ quy trình nghiệp vụ, tin tưởng nhau dẫn đến việc để lộ user đăng nhập, nể nang làm tắt quy trình, nghiệp vụ…
Thứ tư, về cơ chế ủy thác từng phần cho các TCCT-XH cũng nảy sinh một số bất cập như: Trình độ của tổ trưởng tổ TK&VV còn thấp nên nhiều chính sách vay vốn tuyên truyền đến người dân thông qua tổ trưởng chưa đúng; Chưa chú ý đúng mức đến công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ TK&VV, chưa kiểm tra việc sử dụng vốn vay của các tổ viên và việc đôn đốc thu nợ;Một số nơi còn nể nang thiếu kiên quyết trong việc xử lý đối tượng vay vốn sai mục đích, sai đối tượng.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức về mục
đích, ý nghĩa của công tác kiểm soát kém. Việc phổ biến cho nhân viên về trách nhiệm của họ đối với KSNB cũng bị hạn chế làm cho việc phối hợp giữa các nhân viên hoặc các bộ phận khó khăn. Về công tác thông tin tuyên truyền ở một số nơi chưa đi vào chiều sâu, chủ yếu mới chỉ tuyên truyền về chính sách tín dụng ưu đãi, đối tượng thụ hưởng, chưa quan tâm nhiều đến việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và đặc biệt là trách nhiệm trả nợ tiền vay khi đến hạn.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan Môi trường kinh tế xã hội
Môi trường kinh tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro cho vay trên địa bàn tỉnh. Trong giai đoạn 2019-Q2.2021, tỉnh Bắc Ninh chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp và chưa có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó năm 2020, trên địa bàn tỉnh còn xảy ra dịch tả lợn Châu Phi, khó khăn chồng chất khó khăn. Điều này khiến cho nhiều hộ gia đình mất nguồn thu nhập, DN ảnh hưởng HĐKD.
Chính sách pháp lý của Nhà nước
Chủ trương chính sách của nhà nước cũng phần nào ảnh hưởng đến nguyên nhân nợ quá hạn tại chi nhánh. Các chương trình tín dụng chính sách là cho vay ưu đãi với lãi suất thấp có mặt tích cực là giúp hộ nghèo và hộ khó khăn có tiền để làm ăn, trang trải chi phí sinh hoạt…, nhưng mặt tiêu cực là do lãi suất thấp, kể cả lãi suất quá hạn (bằng 130% lãi suất vay vốn) vẫn thấp hơn nhiều so với lãi suất bên ngoài nên phát sinh nhiều hạn chế:Lãi suất ưu đãi làm cho việc bình xét hộ vay đôi khi không minh bạch, dẫn đến sai đối tượng; cho vay cào bằng; người vay không có ý thức trả nợ gốc, có khi vẫn xin gia hạn nợ dù có khả năng hoàn trả, hoặc có người vay không sử dụng mà cho bà con họ hàng, người quen không đủ tiêu chuẩn hộ nghèo vay lại
Lãi suất thấp dẫn đến thu nhập không đảm bảo chi phí trong khi Ngân sách Nhà nước hạn hẹp, cơ chế thu chi bị thắt chặt, dẫn đến chi phí cho thẩm định cho vay, kiểm tra giám sát (kể cả đối với cán bộ ngân hàng và đơn vị nhận ủy thác) phải cắt giảm chi tiêu nên cũng là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ hoàn trả nợ thấp.
Lãi suất ưu đãi nên NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh khó khăn trong việc huy động tiết kiệm với lãi suất cao để thu hút nguồn tiền gửi trong dân cư, đặc biệt là huy động tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo.
Chính quyền địa phương
Việc chỉ định đối tượng vay vốn, bình xét đối tượng vay do chính quyền địa phương tỉnh Bắc Ninh và cơ quan chức năng có liên quan thực hiện, ngoài mặt tích cực cũng có hạn chế đó là việc quyết định cho vay hay không cho vay để đảm bảo hiệu quả cho cả người vay và ngân hàng không phải do NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh quyết định. Mặt khác thủ tục này mang tính chất hành chính nên có thể xảy ra việc lạm dụng quyền hạn của cơ quan có liên quan dẫn đến vốn vay không đúng đối tượng, không kịp thời, không hiệu quả, người cần vay thì không được vay Quá trình thực hiện chính sách vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc.
Nguyên nhân chủ quan
Công tác kiểm soát sau của bộ máy kiểm tra nội bộ chưa thực sự độc lập và khách quan.
Tính độc lập, khách quan không đảm bảo dẫn đến hoạt động kiểm tra có phần nương nhẹ, mang tính che giấu, bảo vệ lẫn nhau (đặc biệt là khi phòng kiểm tra nội bộ của chi nhánh phải thực hiện công tác kiểm tra định kỳ và báo cáo những sai phạm phát hiện được lên Hội sở chính). Mặt khác, sự trùng lặp về mặt nghiệp vụ giữa bộ máy kiểm tra nội bộ với Ban kiểm soát trực thuộc HĐQT gây khó khăn trong công tác kiểm soát. Hai bộ phận làm
lẫn công việc của nhau, dẫn đến vừa tốn chi phí vừa tốn công sức. Có những chi nhánh cùng một lúc tiếp cả hai đoàn kiểm tra của Ban kiểm soát và Ban kiểm tra nội bộ, ảnh hưởng đến hoạt động của chi nhánh.
Cơ chế chính sách cho vay và xử lý nợ tại NHCSHXH tỉnh Bắc Ninh tạo điều kiện vay vốn dễ dàng
Việc cho gia hạn nợ, xử lý cho vay lưu vụ quá dễ dàng, nhiều khi NHCSXHcho gia hạn nợ hoặc cho vay lưu vụ đồng loạt khiến cho người vay có tâm lý ỷ lại, không trả nợ dần khi có khả năng, nên dẫn đến không trả được nợ một lần khi đến hạn trả nợ cuối cùng.Theo quy định thì rủi ro do nguyên nhân chủ quan do cá nhân, tổ chức nào gây ra thì tổ chức cá nhân đó phải tự chịu trách nhiệm, tuy nhiên mới chỉ là thuyết phục hoặc yêu cầu bồi thường hoặc phạt hành chính, ngoài ra cũng có trường hợp đem xử lý theo pháp luật thì chi phí tốn kém và NHCSXH thường phải tạm ứng tòa án phí mà có khi nợ thu hồi được không đủ bù đắp chi phí này.Việc xử lý người vay sử dụng sai mục đích mới chỉ dừng lại ở việc thu hồi nợ, không có cơ chế xử phạt, đồng thời cũng chưa có quy định trong việc xử phạt nợ đến hạn kỳ con, nợ đến hạn phải trả nhưng cố tình không trả
Số lượng nhân sự tham gia KSNB còn ít và thiếu chuyên nghiệp
Một trong những nguyên nhân của việc kiểm soát lỏng lẻo là nhân sự của bộ phận kiểm tra nội bộ quá ít, không thể đảm đương khối lượng công việc lớn theo nhu cầu hiện nay.Về năng lực chuyên môn vẫn tồn tại một số trường hợp CBNV chưa hiểu rõ nghiệp vụ KSNB vì căn bản công tác KSNB đánh giá toàn diện tất cả các hoạt động của NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh. Xét về chương trình đào tạo hiện tại của cán bộ ở bộ phận này cho thấy chưa có chương trình đào tạo cụ thể cho nhân viên của hệ thống kiểm tra KSNB.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 tác giả đã giới thiệu chung về quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu tổ chức và tình hình hoạt động kinh doanh của NHCSXH chi nhánh tỉnh Bắc Ninh. Sau đó đi sâu phân tích thực trạng hoạt động kiểm soát nội bộ tại Chi nhánh giai đoạn 2018-2020 thông qua các chỉ tiêu về công tác chỉ đạo điều hành, triển khai chương trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ, công tác kế hoạch nguồn vốn, công tác tín dụng và các hoạt động khác. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát nội bộ tại NHCSXH chi nhánh tỉnh Bắc Ninh, kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại và các nguyên nhân chính. Đây sẽ là cơ sở nền tảng để tác giả đưa ra những giải pháp và kiến nghị trong chương 3.