Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong dạy học Vật lí

Một phần của tài liệu Lí luận và phương pháp dạy học Vật lí (Trang 30 - 36)

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG ĐA PHƯƠNG TIỆN (MULTIMEDIA) TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG THPT NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH

1.2. Phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong dạy học Vật lí

1.2.4. Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong dạy học Vật lí

Thuật ngữ “phương pháp” được dùng ở nhiều cấp độ khác nhau, từ rất khái quát đến cụ thể. Việc phân loại phương pháp dạy học có ý nghĩa tương đối căn cứ vào đặc điểm và yếu tố cấu thành phương pháp dạy học. Các phương pháp dạy học khác nhau có một số yếu tố cấu thành chung, vì vậy sử dụng một phương pháp đặc trưng không có nghĩa là bỏ đi các yếu tố chung cấu thành phương pháp. Do đó, sử dụng phối hợp các phương pháp là yêu cầu nội tại của phương pháp dạy học nói chung, là một yêu cầu khách quan của quá trình dạy học nói riêng. Trong thực tiễn, khi nghiên cứu vận dụng phương pháp dạy học mới, các tác giả, ngoài việc khẳng định ưu thế của phương pháp dạy học mới, đều nhấn mạnh sử dụng phối hợp chặt chẽ các phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học theo mục tiêu dạy học được xác định.

Phương pháp dạy học tích cực là thuật ngữ rút gọn, để chỉ các phương pháp nhằm đề cao vai trò tự giác, tích cực, độc lập nhận thức của người học dưới vai trò tổ chức, định hướng của người dạy. Vậy phương pháp dạy học tích cực theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và

sáng tạo của người học.

Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của người giáo viên. Người giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Sự phối hợp các phương pháp dạy học nhằm khắc phục các nhược điểm của phương pháp dạy học truyền thống và phát huy các ưu điểm của các quan điểm, lí thuyết, phương pháp dạy học hiện đại, tiên tiến như: dạy học hướng vào học sinh, dạy học bằng tổ chức các hoạt động của học sinh, dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu, dạy học chú trọng đến việc trao đổi kiến thức và bồi dưỡng kĩ năng, kĩ xảo.

Dạy học Vật lí ở phổ thông theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh phù hợp với đặc trưng môn học. Sử dụng rộng rãi thí nghiệm Vật lí ở nhà trường là một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Ngày nay, hệ thống các bài thí nghiệm Vật lí giáo khoa đã được xác định, thiết bị thí nghiệm được cung cấp về các trường phổ thông khá đầy đủ. Tuy nhiên, có những thí nghiệm khó thực hiện, hoặc thực hiện được nhưng hiện tượng xảy ra nhanh khó quan sát. Vì thế thí nghiệm ảo giúp giáo viên và học sinh hoàn thành tốt việc dạy và học của mình.

Việc phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh ở bậc phổ thông cần hết sức chú ý đến yếu tố gốc của vấn đề. Đó chính là phương pháp dạy học của giáo viên.

Do đó, việc vận dụng các phương pháp, phương tiện dạy học để phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh không chỉ ở các trường phổ thông mà ngay cả các trường sư phạm.

Một số phương pháp dạy học tích cực + Phương pháp vấn đáp

Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi, học sinh

trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:

- Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm.

- Vấn đáp giải thích - minh hoạ : Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ các phương tiện nghe - nhìn.

- Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic): Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Trong vấn đáp tìm tòi, giáo viên giống như người tổ chức sự tìm tòi, còn học sinh tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy.

+ Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề

Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh. Vì vậy, tập cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập, cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như một mục tiêu giáo dục. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường như sau:

- Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức

+ Tạo tình huống có vấn đề; Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh;

+ Phát hiện vấn đề cần giải quyết - Giải quyết vấn đề đặt ra

+ Đề xuất giải quyết; Lập kế hoạch giải quyết; Thực hiện kế hoạch giải quyết.

- Kết luận:

+ Thảo luận kết quả và đánh giá; Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;

+ Phát biểu kết luận; Đề xuất vấn đề mới.

Trong dạy học theo phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm được phương pháp lĩnh hội tri thức đó, phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, được chuẩn bị năng lực thích ứng đời sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lí vấn đề nảy sinh.

+ Dạy học khám phá (Inquiry Teaching)

Là một phương pháp dạy học tích cực, năng động và sáng tạo. Dưới góc độ lí luận dạy học hiện nay, dạy học khám phá được hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm các phương pháp dạy học tích cực khác nhau. Dạy học khám phá là một quá trình, trong đó dưới vai trò định hướng của người dạy, người học chủ động việc học tập của bản thân, hình thành các câu hỏi đặt ra trong tư duy, mở rộng công việc nghiên cứu, tìm kiếm; từ đó xây dựng nên những hiểu biết và tri thức mới. Những kiến thức này giúp người học trả lời các câu hỏi, tìm kiếm các giải pháp khác nhau để giải quyết các vấn đề, chứng minh một định lí hay một quan điểm. Dạy học khám phá được sử dụng chủ yếu trong Dạy học các môn khoa học trong nhà trường. Và Vật lí học là một trong những môn học có thể sử dụng phương pháp dạy học này có hiệu quả. Có 4 kiểu khám phá: khám phá quy nạp, khám phá diễn dịch, dạy học tự phát hiện, học tập khám phá, giải quyết vấn đề.

+ Phương pháp thảo luận:

Là phương pháp dạy học đòi hỏi người học phải tích cực động não, đưa ý kiến tham gia quá trình thảo luận. Phương pháp này giúp người học khám phá sự đa dạng của vấn đề, nhận thức về sự tồn tại các cách nhìn nhận khác nhau trong kỷ nguyên của

khám phá tri thức. Để thực hiện thành công phương pháp thảo luận, người dạy cần làm tốt công việc:

- Phân chia lớp học thành các nhóm, tạo điều kiện cho nhóm làm việc thuận lợi.

- Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư kí điều hành và ghi chép về quá trình thực hiện của nhóm. Tạo điều kiện cho mỗi thành viên phát biểu các ý kiến và suy nghĩ của mình một cách tự do và bình đẳng.

- Giáo viên cần chuẩn bị một cách chủ động, tích cực để chương trình làm việc và thảo luận của các nhóm sinh động và có hiệu quả, đồng thời tạo bầu không khí chân thành, cởi mở trong thảo luận. Giáo viên chỉ can thiệp khi thấy thực sự cần thiết.

- Khi hết thời gian thảo luận, các nhóm cử đại diện lên trình bày kết quả của nhóm.

1.2.5. Điều kiện áp dụng phương pháp dạy học tích cực

Giáo viên: phải được đào tạo để thích ứng với những thay đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc đổi mới giáo dục.

giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.

Học sinh: Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế…

Chương trình và sách giáo khoa: giảm khối lượng kiến thức nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập tích cực; giảm những thông tin buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài toán nhận

thức để học sinh tập giải; bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí thông minh.

Thiết bị dạy học: là điều kiện không thể thiếu cho việc triển khai chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học tích cực vào học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm. Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.

Trong quá trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã chú ý lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu cầu để có thể phát huy vai trò thiết bị dạy học.

- Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, thực tế và đạt chất lượng cao, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá kiến thức thông qua hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong quá trình học tập.

- Đảm bảo để nhà trường có thể đạt được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, là những thiết bị thực sự cần thiết không thể thiếu. Các nhà thiết kế và sản xuất thiết bị dạy học sẽ quan tâm để có giá thành hợp lí với chất lượng đảm bảo.

- Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự tiến hành thực hành thí nghiệm.

Những thiết bị đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp phần phong phú thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần được quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở.

Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh: Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu trong quá trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng một giai đoạn giáo dục và trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng hơn trong cả một quá trình giáo dục. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.

Trách nhiệm quản lí: Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp về việc đổi

mới phương pháp dạy học ở trường, đặt vấn đề này ở tầm quan trọng đúng mức trong sự phối hợp các hoạt động toàn diện của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng, ủng hộ, khuyến khích mỗi sáng kiến, cải tiến dù nhỏ của giáo viên, cần hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên vận dụng phương pháp dạy học tích cực thích hợp môn học, đặc điểm học sinh, điều kiện dạy và học ở địa phương, làm cho phong trào đổi mới phương pháp dạy học ngày càng rộng rãi, thường xuyên và có hiệu quả hơn. Hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học ở trường phổ thông, học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập.

1.3. Ứng dụng đa phương tiện (multimedia) trong dạy học Vật lí nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh

Một phần của tài liệu Lí luận và phương pháp dạy học Vật lí (Trang 30 - 36)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(162 trang)