Đặc điểm về tổn thương cơ của nhóm bệnh nhân nghiên cứu

Một phần của tài liệu (LUẬN án TIẾN sĩ) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số thay đổi miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ (Trang 88 - 91)

- Khảo sát đặc điểm các allele thuộc locus HLADRB1 của nhóm bệnh nhân viêm đa cơvà viêm da cơ có kháng thểđặc hiệu với bệnh và có viêm phổi kẽ.

4.2.3. Đặc điểm về tổn thương cơ của nhóm bệnh nhân nghiên cứu

Trong viêm đa cơ và viêm da cơ, bệnh nhân thường bị yếu cơ vùng gốc chi, đối xứng hai bên. Hay gặp nhất là các nhóm cơ ở vùng vai và vùng đai chậu, đặc biệt

là cơ tứ đầu đùi và cơ đai lưng chậu. Trên lâm sàng, bệnh nhân có dấu hiệu ghế đẩu. Yếu cơ vùng ngọn chi thường xảy ra ởgiai đoạn muộn của bệnh.

Khi đánh giá cơ lực và trương lực cơ của 8 nhóm cơ ở các bệnh nhân nghiên cứu bằng chỉ sốMMT8, chúng tơi thấy cả 2 nhóm bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ đều có tỷ lệ yếu các nhóm cơ ởchi dưới cao hơn so với yếu các nhóm cơ ởchi trên và những cơ ở gốc chi yếu nhiều hơn so với các cơ ở ngọn chi. Trong đó, nhóm

bệnh nhân viêm đa cơ có yếu cơ tứđầu đùi chiếm một tỷ lệ cao nhất (86,4%), cịn nhóm bệnh nhân viêm da cơ có yếu cơ mơng giữa chiếm một tỷ lệ cao nhất (92,1%). Trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ, sự phát hiện và đánh giá mức độ

yếu cơ ở chi dưới rất quan trọng trên lâm sàng vì khi các nhóm cơ này bị yếu, sẽ làm tăng nguy cơ bị ngã của bệnh nhân [102].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của Harris-Love MO, gồm 172 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, thấy các bệnh

nhân bị yếu cơ vùng gốc chi nhiều hơn cơ vùng ngọn chi và những cơ ở chi dưới yếu nhiều hơn so với các cơ ở chi trên, trong đó, có 5 nhóm cơ hay bị yếu nhất gồm: cơ gấp khớp háng, cơ dạng khớp háng, cơ duỗi khớp háng, cơ gập cổ và cơ

dạng khớp vai [102].

Theo kết quả của một số nghiên cứu, triệu chứng đau cơ gặp ở khoảng 50% các

bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ và thường gặp nhiều hơn trong viêm da cơ. Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu, 84,1% các bệnh nhân có tình trạng đau cơ và khơng có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân bị đau cơ giữa 2 nhóm viêm đa cơ và viêm da cơ.

Trong viêm đa cơvà viêm da cơ, do những tế bào cơ bị tổn thương viêm và hoại tử nên giải phóng ra các men cơ, làm các men cơ trong huyết thanh tăng, gồm: CK,

SGOT, SGPT, LDH. Trong đó, men CK có độ đặc hiệu cao nhất với bệnh vì các men SGOT, SGPT và LDH cũng có trong các cơ quan khác như gan [41].

Trong những đợt tiến triển của bệnh, men CK có thể tăng trước khi bệnh nhân có

dấu hiệu yếu cơ khoảng vài tuần đến vài tháng. Khi đánh giá mức độ tiến triển của

tình trạng viêm cơ bằng chỉ số MDAAT, chúng tôi thấy mức độ viêm cơ của 2

nhóm bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ khơng có sự khác biệt với p>0,05. Tuy

nhiên, nhóm bệnh nhân viêm đa cơ có nồng độ men CK trung bình cao hơn nhiều so với nhóm bệnh nhân viêm da cơ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương

tự với kết quả nghiên cứu của Rita Volochayve và cộng sự gồm 620 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, thấy các bệnh nhân viêm đa cơ có nồng độ men CK cao

hơn so với nhóm viêm da cơ [103].

Trong viêm đa cơ, các bệnh nhân thường có nồng độ men CK trong huyết thanh

tăng cao hơn nhiều so với bệnh nhân viêm da cơ do mức độ viêm cơ thường tiến triển nặng hơn. Ngoài ra, ở một số bệnh nhân viêm da cơ, do có các tự kháng thể kháng lại men CK dẫn đến nồng độ men CK trong huyết thanh không tăng [103]. Trong viêm da cơ, men CK thường tăng ở mức độ từ nhẹđến trung bình, gấp 2- 10

lần so với giới hạn trên của bình thường. Khoảng dưới 10% bệnh nhân viêm da cơ có men CK trong huyết thanh không tăng mặc dù bệnh tiến triển [104], [105].

Trong viêm đa cơ, men CK tăng cao, gấp từ 5- 50 lần so với giới hạn trên của bình

thường. Trong một nghiên cứu của Sultan SM, gồm 46 bệnh nhân viêm cơ tự miễn

được theo dõi dọc trong 20 năm, thấy nồng độ CK trong giới hạn bình thường gặp nhiều hơn ở những bệnh nhân viêm da cơ so với viêm đa cơ. Ngun nhân do ở nhóm viêm da cơ, tình trạng viêm cơ không tiến triển hoặc bệnh ở giai đoạn muộn,

gây ra teo cơ nặng [92].

Nhóm bệnh nhân nghiên cứu có nồng độ men CK trung bình = 2479,5 ± 5004,4

IU/l, thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của So MW gồm 151 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ tại Hàn Quốc, thấy các bệnh nhân có nồng độ men CK trong huyết thanh trung bình = 4230 IU/l [51]. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này do trong nghiên cứu của So, tỷ lệ các bệnh nhân bị viêm cơ mức độ nặng cao hơn so

với nghiên cứu của chúng tôi.

Trong 151 bệnh nhân nghiên cứu, men CK tăng chỉcó ở 61,6% bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của Rita gồm 620 bệnh

nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, thấy 42,4% bệnh nhân có men CK trong giới hạn bình thường. Ở một số bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, men CK có thể khơng

tăng như: bệnh ởgiai đoạn muộn có teo cơ nhiều, phần lớn các cơ bị tổn thương và được thay thế bằng tổ chức mỡ, bệnh ở giai đoạn sớm đặc biệt trong viêm da cơ,

bệnh kết hợp với ung thư [98], [106].

Mặc dù men CK được giải phóng ra từ tổ chức cơ bị tổn thương nhưng nồng độ men CK không phải luôn ln phản ánh chính xác mức độ tiến triển của bệnh [107]. Theo kết quả của các nghiên cứu, khơng tìm thấy mối liên quan giữa nồng

độ men CK ở thời điểm bắt đầu bị bệnh và tiên lượng của bệnh nhân [105]. Ở một số bệnh nhân, tuy bệnh tiến triển nhưng men CK vẫn trong giới hạn bình thường và

men CK đáp ứng với điều trị nhanh hơn so với sự cải thiện về cơ lực và trương lực

cơ của bệnh nhân.

Trong nghiên cứu, chúng tôi thấy 26/151 bệnh nhân khơng có dấu hiệu bất thường trên bản ghi điện cơ (chiếm tỷ lệ 17,2%). Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với kết quả của một số nghiên cứu, khoảng 20% bệnh nhân khơng có thay đổi bất

thường khi làm điện cơ, trích dẫn từ nguồn [108]. Ở một số bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, khi làmđiện cơ có thể thấy những thay đổi do tổn thương các nhánh

tận của thần kinh trong cơ, đặc biệt sau khi bệnh nhân mắc bệnh khoảng vài năm

[109].

Một phần của tài liệu (LUẬN án TIẾN sĩ) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số thay đổi miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ (Trang 88 - 91)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(152 trang)