Đặc điểm tổn thương phổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu

Một phần của tài liệu (LUẬN án TIẾN sĩ) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số thay đổi miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ (Trang 96 - 98)

- Khảo sát đặc điểm các allele thuộc locus HLADRB1 của nhóm bệnh nhân viêm đa cơvà viêm da cơ có kháng thểđặc hiệu với bệnh và có viêm phổi kẽ.

4.2.10. Đặc điểm tổn thương phổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu

Viêm phổi kẽ gặp ở khoảng 78% bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ, có thể xảy ra ở những bệnh nhân khơng có biểu hiện triệu chứng lâm sàng của tổn thương viêm cơ hoặc viêm cơ rất nhẹ hoặc viêm cơ xuất hiện muộn [120]. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy, khơng có mối liên quan giữa mức độ tiến triển của tổn

thương viêm cơ và các biểu hiện lâm sàng của tổn thương phổi ở những bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ. Do đó, các bệnh nhân có tổn thương phổi thường được

phát hiện muộn và ảnh hưởng xấu đến hiệu quảđiều trị.

Trong nghiên cứu, chúng tơi thấy 52/151 bệnh nhân có viêm phổi kẽ, chiếm tỷ lệ

34,4%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của So ở 151 bệnh nhân tại Hàn Quốc, có 33% bệnh nhân bị viêm phổi kẽ. Tuy

nhiên, trong một nghiên cứu của Azuma gồm 121 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ tại Nhật Bản, 54% bệnh nhân bị viêm phổi kẽ, trích dẫn từ nguồn [49].

Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt có thể do trong nghiên cứu của Azuma, tỷ lệ

bệnh nhân có kháng thể kháng Jo-1 (14%) và viêm cơ tiến triển nặng cao hơn so

với nghiên cứu của chúng tơi (8,6% bệnh nhân có kháng thểkháng Jo-1) mà kháng

thể kháng Jo-1 là một yếu tố nguy cơ cao của viêm phổi kẽ ở bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ.

Nhóm bệnh nhân viêm da cơ nghiên cứu có tỷ lệ viêm phổi kẽ cao hơn so với

nhóm viêm đa cơ. Tuy nhiên, mức độ tiến triển của viêm phổi kẽ giữa 2 nhóm

bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ khơng có sự khác biệt khi đánh giá bằng chỉ

số MDAAT. Kết quả của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của Chen Yi- Ju gồm 56 bệnh nhân viêm đa cơ và viêm da cơ tại Trung Quốc, thấy viêm phổi kẽ

gặp ở bệnh nhân viêm da cơ nhiều hơn viêm đa cơ [121]. Theo nhiều nghiên cứu,

đa cơ. Viêm phổi kẽ trong viêm da cơ thường kết hợp với tổn thương các phế nang lan tỏa, kháng lại với điều trị corticoid, có tiên lượng xấu hơn và tỷ lệ tử vong cao

hơn khi so với viêm phổi kẽtrong viêm đa cơ [120].

Trong 52 bệnh nhân nghiên cứu bị viêm phổi kẽ, các triệu chứng lâm sàng về hô

hấp như ho khan, khó thở chỉ gặp ở 71,2% bệnh nhân và tăng áp động mạch phổi

có ở 46,2% bệnh nhân. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với kết quả nghiên

cứu của Marie I [122] và Fathi Maryam [123].

Nhóm bệnh nhân nghiên cứu bị viêm phổi kẽ có tuổi trung bình cao hơn và thời gian mắc bệnh trung bình ngắn hơn so với nhóm bệnh nhân khơng có viêm phổi kẽ. Trong nghiên cứu của Marie I, nhóm bệnh nhân có viêm phổi kẽ cũng già hơn

so với nhóm bệnh nhân khơng có viêm phổi kẽ [122].

Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, những yếu tốtiên lượng xấu của viêm phổi kẽ

gồm: bệnh nhân lớn tuổi ở thời điểm bắt đầu bị bệnh (> 45 tuổi), viêm phổi kẽ có

biểu hiện triệu chứng về hơ hấp như ho, khó thở, đo chức năng hơ hấp có FVC

giảm, DLCO giảm, kháng thể kháng Jo-1 dương tính và kháng điều trị corticoid. Những bệnh nhân bịviêm phổi kẽcó thời gian sống ngắn hơn so với các bệnh nhân khơng có viêm phổi kẽ [124].

Trong nhóm bệnh nhân có viêm phổi kẽ, chúng tơi thấy tỷ lệ bệnh nhân có sốt, dát đỏ ở da, yếu cơ vùng gốc chi, viêm cơ mức độ nặng, CRP tăng, thiếu máu cao hơn

rất nhiều khi so sánh với nhóm bệnh nhân khơng có viêm phổi kẽ. Trong những

nghiên cứu của Cen Xiaomin [125] và Fathi Maryam [126], các triệu chứng gồm: sốt, dát đỏ ở da, viêm mao mạch quanh móng tay, yếu cơ vùng gốc chi, thiếu máu, CRP tăng, kháng thể kháng synthetase đều có liên quan chặt chẽ với tình trạng

viêm phổi kẽ trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ.

Khi so sánh, chúng tơi thấy nhóm bệnh nhân viêm phổi kẽ có tỷ lệ kháng thể đặc hiệu, kháng thể kháng synthetase và kháng thể kháng Jo-1 cao hơn nhiều so với

nhóm bệnh nhân khơng có viêm phổi kẽ. Trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ có

tổn thương viêm phổi kẽ, các kháng thể thường gặp gồm: nhóm kháng thể kháng

synthetase, trong đó, kháng thể kháng Jo-1 chiếm một tỷ lệ cao nhất, sau đó đến

kháng thể kháng CADM-140 [127].

Khoảng 20% bệnh nhân có viêm phổi kẽ xảy ra trước khi có các triệu chứng khác

của viêm đa cơ và viêm da cơ khoảng vài tháng đến vài năm [128]. Viêm phổi kẽ có thể tiến triển nhanh hoặc mạn tính, trong đó, thể tiến triển nhanh gặp nhiều hơn ở những bệnh nhân viêm da cơ thểkhông điển hình. Những bệnh nhân này thường

kháng với điều trị corticoid và các thuốc ức chế miễn dịch, dẫn đến suy hô hấp và

tử vong [129], [130].

Trong viêm đa cơ và viêm da cơ, những tổn thương phổi hay gặp nhất trên

C.T.Scanner phổi gồm: hình ảnh đơng đặc dạng kính mờ, hình mờthành dải không đồng đều cùng với những vùng đông đặc phổi. Hình ảnh tổ ong ít gặp. Trong 52 bệnh nhân nghiên cứu có viêm phổi kẽ, hình ảnh đơng đặc phổi dạng kính mờ

chiếm một tỷ lệ cao nhất (71,2%), hình tổ ong, xơ phổi dạng lưới và giãn phế quản

ít gặp. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với kết quả của một số nghiên cứu

khác [126], [131], [132].

Một phần của tài liệu (LUẬN án TIẾN sĩ) nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số thay đổi miễn dịch trong bệnh viêm đa cơ và viêm da cơ (Trang 96 - 98)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(152 trang)