Chất lượng thông tin

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xây dựng vừa và nhỏ trên địa bàn TP hồ chí minh (Trang 31 - 40)

CHƯƠNG I : TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

2.2 Chất lượng thông tin kế toán

2.2.2 Chất lượng thông tin

Theo Crosby (2006), Mouzhi Ge(2009), khái niệm chất lượng thay đổi phụ thuộc lĩnh vực và đối tượng nghiên cứu.

Theo ISO (International Organization for Standardization -Tổ chức quốc tế về tiêu chuNn hóa), chất lượng được khái niệm là khả năng thích ứng các tiêu chí của một tổng hợp các thuộc tính sẵn có (ISO 9000:2005). Theo luận điểm này, chất lượng có một số thuộc tính sau:

- Chất lượng là đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất: dựa trên luận điểm của người tiêu dùng để xác định các tiêu chuNn chất lượng cao hay thấp

- Chất lượng là các nhu cầu khác nhau có sự gắn kết chặt chẽ: cùng một mục tiêu như nhau, nhu cầu tiêu dùng của sản phNm nào được thỏa mãn cao hơn thì sản phNm đó được xem xét là chất lượng cao hơn.

- Chất lượng được tiêu chuNn hóa: cần quy định rõ ràng và cụ thể một số chất lượng của các đối tượng cần xem xét

Dựa trên đối tượng nghiên cứu là sản phNm, Garvin(1988) cho rằng chất lượng được xác định bằng số lượng hoặc mức độ của một hoặc nhiều thuộc tính sở hữu bởi sản phNm đó.

Dựa trên đối tượng nghiên cứu là người sử dụng, Deming (1986) cho rằng chất lượng nên được nhằm vào nhu cầu của người tiêu dùng hiện tại và trong tương lai, chất lượng là sự thích ứng kỳ vọng của khách hàng và sự cần thiết để tạo ra sự hài lịng về hàng hóa và dịch vụ sản xuất.

Trong lĩnh vực kế toán quản trị, CLTT được xem về tính khả năng thích ứng các đề nghị của nhà quản lý nhằm đạt được sự hiểu rõ sâu sắc về tình hình của tổ chức giúp họ đưa ra quyết định, giám sát, thực hiện các mục tiêu chiến lược (Noor & Ibrahim,

2013); ngoài ra CLTT BCTC, FASB đưa ra quan điểm rằng người sử dụng thông tin

được coi là người đưa ra quyết định tổng thể về lợi ích của bất kỳ thơng tin mà họ nhận

được (FASB, 1993). Theo quan điểm hòa hợp giữa IASB & FASB thì mục tiêu chung

của việc lập BCTC là nhằm cung cấp thơng tin tài chính hữu ích cho những nhà đầu tư, người cho vay, các chủ nợ khác hiện hữu và tiềm năng trong việc ra quyết định về việc cung cấp nguồn lực cho một thực thể (IASB, 2010).

Theo Mouzhi Ge (2009), CLTT được khái niệm dựa trên hai khía cạnh chủ yếu: thuộc tính thơng tin và người dùng thơng tin.

Về thuộc tính thơng tin, CLTT là sự thích ứng về những tính chất kỹ thuật (Kahn & Strong, 1988); theo CobiT, CLTT được đánh giá qua bảy tiêu chuNn: bảo mật, hữu hiệu, sẵn sàng, tuân thủ, toàn vẹn, hiệu quả và đáng tin cậy (IT Governance Institute, 2007; theo Eppler 2006).

Đối với người sử dụng, CLTT là sự thích hợp để sử dụng đối với người có nhu cầu (Wang & Strong, 1996). Theo Baltzan (2012), CLTT được xem là tốt nếu nó được xem là thích hợp với các yêu cầu của người dùng thông tin bao gồm: Đầy đủ, chính xác (Accuracy), kịp thời, nhất quán và phù hợp. Gelinas & ctg (2012) cho rằng CLTT đạt được khi mang lại có ích cho người ra nhận định. Người dùng phải có tiêu chí cụ thể cho CLTT thơng thường bao gồm: Đầy đủ, Kịp thời, Chính xác và Thích hợp,...

Trong luận văn của mình, nghiên cứu kết hợp cả 2 quan điểm: đặc điểm thông tin lẫn người dùng thông tin để xây dựng khái niệm CLTT, theo đó, tác giả đề xuất trong nghiên cứu này dựa trên quan điểm của kế toán quản trị, CLTT được khái niệm bao gồm một tập hợp các tiêu chuNn theo quy định nhằm thích nghi những yêu cầu của người dùng thơng tin vì theo khái niệm này phù hợp với tiêu chí cung cấp thơng tin cho việc quản trị doanh nghiệp và đưa ra các quyết định kinh tế của các nhà lãnh đạo.

2.2.3 Chất lượng TTKT

Những nghiên cứu trước đây cho thấy có khá nhiều ý kiến khác nhau, có trường hợp trái chiều về chất lượng TTKT như các luận điểm của Hội đồng CMKT kế toán quốc tế (IASB), hay luận điểm của Hội đồng CMKT tài chính Hoa Kỳ (FASB), luận điểm theo dự án hội tụ IASB-FASB, quan điểm theo CMKT Việt Nam,...

Quan điểm về chất lượng TTKT của một số nhà nghiên cứu

Theo Stair and Reynolds (2012), thông tin được coi giống như nguồn tài nguyên chiến lược của tổ chức nếu thơng tin có chất lượng tốt, thì nó sẽ giúp tổ chức hoạt động hiệu quả, thực hiện các mục tiêu của tổ chức một các hữu hiệu và hiệu quả hơn, nhằm đạt được các mục đích ban đầu đưa ra. Do vậy, CLTTKT có vai trị hết sức thiết yếu cho sự hoạt động bền vững của tổ chức. CLTTKT ảnh hưởng trực tiếp và có tính chất quyết định sự thành bại của các quyết định kinh doanh của DN. Theo O Briens (2004), TTKT có chất lượng tốt nghĩa là thơng tin có những đặc điểm hữu ích với người sử dụng. Ngoài ra, theo Kahn và Strong (1998), CLTT có thuộc tính của thơng tin để hỗ trợ đạt được các đề nghị hay sự kỳ vọng đề ra của người sử dụng thông tin.

Quan điểm của Hội đồng CMKT tài chính Hoa Kỳ-FASB

Theo FASB, có 2 nhóm thuộc tính chất lượng là nhóm các thuộc tính cơ sở và nhóm các thuộc tính thứ yếu. Trong đó, nhóm thuộc tính cơ sở bao gồm tính đánh tin cậy và thích hợp; nhóm đặc điểm thứ yếu bao gồm nhất quán và có thể đối sánh (hay cịn gọi là có thể so sánh).

Thuộc tính chất lượng cơ sở

- Phù hợp: khi TTKT có thể giúp người dùng có thể xem xét các thông tin này thay đổi các nhận định của mình. Để thực hiện được điều này, thông tin cần phải:

+ Dự đốn và có giá trị nhận xét: từ việc sử dụng thơng tin đó, người đầu tư có thể đưa ra quyết định dự đoán, đánh giá hay điều chỉnh lại những tiên đốn, nhận định trước

đó của mình. Điều này cũng có nghĩa là thơng tin sẽ làm tăng tính chắc chắn trong các

quyết định.

+ Kịp thời: thuộc tính này thể hiện thông tin thực hiện hỗ trợ cho việc ra quyết định của người sử dụng. Nếu thơng tin khơng kịp thời sẽ có thể làm mất hoặc giảm độ phù hợp của thơng tin đó, nhưng nếu chỉ có tính kịp thời mà khơng có giá trị phán đốn thì thơng tin khơng thể coi là thích hợp.

- Đáng tin cậy: thơng tin cần được trình bày trung thực hay khơng có thiên lệch, có thể kiểm chứng được và khơng sai sót. Để mang tính đáng tin cậy thì thơng tin cần phải:

+ Trình bày trung thực: sự đánh giá hay diễn đạt về TTKT phải thích hợp với sự kiện đã diễn ra mà nó muốn phản ánh. Sự phù hợp này được đặt trong hoàn cảnh cụ thể nơi nghiệp vụ/sự kiện diễn ra, vì một cách đánh giá chỉ phù hợp với đối tượng này, có thể khơng phù hợp với đối tượng khác, ở trong điều kiện khác. Điểm chú ý, trình bày trung thực khơng có nghĩa là thông tin phải chính xác do có thể trong nhiều trường hợp, sự chính xác khơng cho thơng tin đáng tin cậy bằng giá trị ước tính trong khoảng thời gian hợp lý.

+ Có thể kiểm chứng: là một yếu tố cần thiết giúp tính trung thực của thơng tin được đảm bảo. Đặc tính này có nghĩa là thơng tin có sự phù hợp với các hiện tượng muốn trình bày, việc lựa chọn phương pháp đưa ra kết quả giữa những người đánh giá thông tin (điều này yêu cầu những người đánh giá có tính chất độc lập và đủ năng lực trong lĩnh vực kiểm tra) không được sai sót

+ Trung lập: TTKT được coi là trung lập khi nó khách quan, khơng bị chi phối bởi một tác động khác có thể tác động lên quyết định theo hướng thiên lệch và không trung thực.

Đặc điểm chất lượng thứ yếu

-Nhất quán: thể hiện qua việc các thủ tục kế tốn khơng có sự thay đổi, có sự phù hợp giữa các kỳ. Nếu trong trường hợp có sử dụng phương pháp kế tốn mới thì cần có thuyết minh thích hợp để thông tin đảm bảo khả năng so sánh giữa các kỳ.

-Khả năng so sánh được: yêu cầu này giúp cho thơng tin có được giữa hai sự việc kinh tế được nhận thấy sự tương tự hay khác biệt từ người dùng thơng tin. Khi đó, các sự việc có nghiệp vụ giống nhau phải được ghi nhận và thể hiện giống nhau, các sự việc kinh tế khác nhau phải được ghi nhận và thể hiện khác nhau.

Tuy nhiên, FASB đã đưa ra các hạn chế mặc dù các đặc điểm kể trên của TTKT không phải luôn luôn được thể hiện một cách đầy đủ như sau:

-Quan hệ chi phí – lợi ích: quan hệ này nói rằng cần xem xét chi phí để có được thơng tin cùng với những lợi ích có được từ việc thu thập các sự kiện thơng tin đó. FASB cho rằng có sự ảnh hưởng của quan hệ chi phí –lợi ích này rất nhiều tới chất lượng TTKT là giới hạn

-Trọng yếu: vấn đề trình bày sai lệch hay thiếu sót về TTKT có thể làm ảnh hưởng tới nhận định của người dùng thông tin (nhà đầu tư) khi sử dụng các nguồn tài ngun đó trong những khơng gian cụ thể. Đây được coi là một hạn chế vì bất cứ khi nào đưa ra các thơng tin trên báo cáo, người dùng thông tin cũng cần xét đốn về tính trọng yếu này. Một nghiệp vụ được coi trọng yếu hay không, chúng ta cần phải xem xét dựa vào quy mô của nghiệp vụ, quy mô của doanh nghiệp, mức độ vi phạm các hợp đồng.

-Đặc điểm ngành nghề: mỗi ngành nghề khác nhau nên áp dụng những lý thuyết cơ bản khác nhau. Những phương pháp trình bày về các thông tin về kết quả hoạt động kinh doanh và các thơng tin liên quan đến tài chính của một ngành nghề có thể địi hỏi sự thốt ly các lý thuyết kế toán do mỗi sự kiện có đặc điểm khác nhau hay thơng lệ chung chỉ có ở ngành nghề đó.

-Thận trọng: nghĩa là trong những tình huống chưa rõ ràng, cần có phản ứng thận trọng và xem xét đầy đủ các rủi ro tiềm tàng xung quanh các tình huống đó. FASB thể hiện sự phản đối với khái niệm thận trọng truyền thống trước đây “chấp nhận sai sót tiềm Nn khơng đo lường dẫn đến khai thấp tài sản/lợi nhuận thuần còn hơn là khai cao chúng”. Điều này sẽ làm thông tin đi ngược lại với các đặc điểm chất lượng như trung thực, trung lập và khả năng so sánh.

Thận trọng phản ánh cách người thực hiện công tác của một kế toán xử lý trong các nghiệp vụ khơng chắc chắn. Do đó, theo FASB thì cần có những thuyết minh đầy đủ như nội dung, thơng tin liên quan tới tình huống khơng chắc chắn để người sử dụng thơng tin có sự xét đốn của cá nhân mình tới nghiệp vụ đó.

Quan điểm của Hội đồng CMKT kế toán quốc tế - IASB

Các thuộc tính chất lượng mà IASB đưa ra gồm: đáng tin cậy, thích hợp, có thể hiểu được và có thể so sánh.

-Có thể hiểu được: thơng tin trên báo cáo được cung cấp cho đối tượng sử dụng phải đảm bảo có thể hiểu được và người dùng có thể nắm rõ các thơng tin đó. Các đối tượng dùng có thể là các người am hiểu đến kế tốn – kiểm tốn, tài chính, kinh tế, kinh doanh, tuy nhiên họ cũng có thể là những người có kiến thức hạn chế để đọc hiểu BCTC. Tuy vậy, cần giữ lại các thông tin trên BCTC mà những thơng tin về sự việc phức tạp hay

khó hiểu cần thiết cho quá trình ra nhận định chỉ vì nó gây khó khăn do năng lực chưa hiểu hết các thông tin này của một số đối tượng.

- Thích hợp: nguồn thơng tin trở nên hữu dụng khi nó thích hợp với nhu cầu đưa ra quyết định của các đối tượng cần thơng tin đó. Tính thích hợp bao gồm hai đặc tính dự đốn và xác nhận, chúng có mối liên hệ với nhau. Thơng tin thích hợp có thể giúp ích cho người dùng khi giúp họ đánh giá nghiệp vụ trong quá khứ, hiện tại và tương lai cũng như hỗ trợ họ rà sốt lại các đánh giá trong q khứ.

Tính thích hợp thơng tin bị chi phối bởi nội dung, ngồi ra cịn có tính trọng yếu cũng được quy định trong thuộc tính này. Tính trọng yếu của thơng tin thể hiện ở chỗ trong trường hợp bỏ sót hoặc trình bày sai lệch thơng tin này thì sẽ ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng.

-Đáng tin cậy: là phản ánh trung thực bản chất của vấn đề, khơng có sự thiếu sót hay sai lệch nào trọng yếu. Các yêu cầu của thông tin đáng tin cậy gồm có: trình bày trung thực, nội dung quan trọng hơn hình thức, khơng thiên lệch, thận trọng và đầy đủ.

+ Thông tin cần trình bày một cách trung thực về các sự việc sẽ góp phần làm thơng tin trở nên tin tưởng

+ Để ghi nhận đặc tính trung thực, các nội dung về sự việc khơng được coi trọng hình thức hơn nội dung, điều này có ý nghĩa là khơng những dựa vào các căn cứ hình thức pháp lý mà cịn quan tâm đến việc trình bày thích hợp với bản chất vĩ mô của công ty

+ Để thông tin đáng tin cậy, thông tin cần phải trung tính, khơng bị phản ánh sai lệch, nghĩa là khơng bị điều chỉnh nếu việc lựa chọn và trình bày BCTC nhằm tác động đến việc ra quyết định theo một kết quả định trước.

+ Thận trọng là các thông tin cần tăng thêm mức độ cNn trọng, lưu ý tới một sự việc khi thực hiện phán đoán trong các điều kiện chưa chắc chắn, sao cho không đánh giá cao quá mức thu nhập và tài sản hiện có, khơng giấu bớt các khoản nợ nghĩa vụ phải trả.

Tuy vậy, thận trọng không phải là việc lập các khoản dự phòng rủi ro quá cao, cố tình khai ít tài sản và thu nhập, khai tăng chi phí và nợ nghĩa vụ phải trả.

+ Thơng tin cần phải trình bày đầy đủ để đảm bảo tính tin cậy, trong phạm vi của trọng yếu. Vì lí do nào đó mà bỏ sót hoặc khai thiếu sẽ làm cho thông tin bị sai lệch, hiểu lầm, làm ảnh hưởng đến tính trung thực và độ tin cậy của thơng tin

- Có thể so sánh: các dữ liệu về thông tin trên BCTC được công nhận có ích khi thơng tin đó có thể đối sánh với những kỳ kế tốn trước. Vì vậy, cần trình bày nhất quán và nhận xét đối với các nghiệp vụ giống nhau của giữa các doanh nghiệp khác nhau, giữa các kỳ, hay giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, căn cứ vào những quy định của chuNn mực hay khi doanh nghiệp cảm thấy cần thiết, có thể thay đổi chính sách kế toán, nhưng phải thuyết minh cụ thể sự thay đổi đó.

Các hạn chế mà IASB đưa ra:

-Sự kịp thời: để thơng tin đưa ra có tính tin cậy thì cần địi hỏi có thời gian, tuy nhiên nếu thực hiện báo cáo khơng đúng hạn thì thơng tin sẽ giảm tính thích hợp, do vậy trong từng trường hợp cần cân đối giữa thuộc tính đáng tin cậy của và quy định về kịp thời của thơng tin.

-Cân đối giữa chi phí và lợi ích: cần cân đối giữa chi phí bỏ ra để đưa ra các kết quả thơng tin và lợi ích thu được khi dùng thơng tin đó.

-Cân đối giữa thuộc tính chất lượng: BCTC có chất lượng thì phải đáp ứng rất nhiều thuộc tính chất lượng, tuy nhiên cần cân đối giữa các thuộc tính chất lượng nhằm thích ứng hài hịa giữa các mục tiêu cần đạt được của BCTC.

Ngoài ra, BCTC trung thực và hợp lý khi áp dụng các đặc điểm của chất lượng và các chuNn mực kế toán phù hợp, do đó IASB cịn đề cập đến đặc tính trung thực và hợp lý về sự thay đổi tình hình tài chính, kết quả hoạt doanh của doanh nghiệp.

Quan điểm theo dự án hội tụ IASB-FASB

Dựa vào các mục tiêu của BCTC, dự án hội tụ của IASB-FASB đã đề xuất hai thuộc tính chất lượng cơ sở là trình bày trung thực và phù hợp, bốn thuộc tính chất lượng

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp xây dựng vừa và nhỏ trên địa bàn TP hồ chí minh (Trang 31 - 40)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(125 trang)