Căn cứ khởi tố vụ án hình sự

Một phần của tài liệu lý luận và thực tiễn về khởi tố vụ án hình sự (Trang 25 - 33)

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

2.1 Quyết định khởi tố vụ án hình sự

2.1.1 Căn cứ khởi tố vụ án hình sự

Căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền khởi tố trong phạm vi nhiệm vụ của mình ra quyết định khởi tố vụ án hình sự phải dựa vào những cơ sở khởi tố theo luật định, để xác định xem có dấu hiệu tội phạm. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn tin mà cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào những nguồn tin đó để xác định xem sự việc đã xảy ra, hoặc đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không. Dấu hiệu của tội phạm được xem là những tài liệu cơ bản ban đầu về sự việc phạm tội, là điều kiện cần và đủ để khởi tố vụ án hình sự. Dấu hiệu tội phạm được xác định trên cơ sở những thông tin thu được từ những nguồn tin nhất định, chứ không phải mọi thông tin thu được đều là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.

Để tránh những trường hợp có thể xảy ra những oan sai, nhằm bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, nên luật quy định: “chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu

CBHD: Mạc Giáng Châu 20 SVTH: Nguyễn Bích Thủy hiệu tội phạm”16. Việc xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm là do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp cơ quan có thẩm quyền đều trực tiếp phát hiện được dấu hiệu của tội phạm, mà có nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền phát hiện một cách gián tiếp dấu hiệu tội phạm thông qua nguồn tin của công dân, cơ quan, tổ chức, trên phương tiện thông tin đại chúng… Khi nhận được nguồn tin này cơ quan có thẩm quyền phải kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin ban đầu nhằm xác định dấu hiệu của tội phạm. Dấu hiệu của tội phạm được xác định thông qua nguồn tin do pháp luật hiện hành quy định mới có giá trị pháp lý để khởi tố vụ án. Ngược lại, nếu cơ quan có thẩm quyền không dựa vào những quy định của pháp luật thì không được xem là cơ sở để khởi tố vụ án. Mọi thông tin không được xác định từ các cơ sở do luật định thì không thể coi là cơ sở khởi tố vụ án hình sự như: lời đồn, dư luận... Do đó, nhằm kết hợp sức mạnh của Nhà nước với sức mạnh của nhân dân trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm nên Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định năm cơ sở khởi tố vụ án hình sự:

Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:

1. Tố giác của công dân

2. Tin báo của cơ quan, tổ chức

3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng

4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm.

5. Người phạm tội tự thú”.

2.1.1.1 Tố giác của công dân

Tố giác của công dân là việc một người trình báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc phát hiện một người (hay một nhóm người) đã, đang hoặc chuẩn bị thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội:

…Công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức”.

Như vậy, Nhà nước khuyến khích mọi người thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Mặt khác, Bộ luật hình sự 1999 không có quy định giới hạn về độ tuổi công dân

16Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

được thực hiện việc tố giác tội phạm. Trong trường hợp người chưa thành niên phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật cần báo ngay cho cha mẹ, thầy cô giáo hoặc những người lớn tuổi để những người này giúp đỡ trong công việc tố giác tội phạm trước cơ quan có thẩm quyền.

Mỗi công dân là một nguồn tin đối với sự việc xảy ra bởi công dân là người tiếp cận trực tiếp, kịp thời nhất mọi thông tin về tội phạm. Do đó, tố giác của công dân là những nguồn tin tạo nên một mạng lưới về tội phạm rộng khắp mọi nơi. Dựa vào điều kiện thuận tiện này, luật đã trang bị cho công dân vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ tố giác tội phạm nhằm đảm bảo trật tự xã hội cho đất nước. Công dân có thể tố giác các hành vi vi phạm pháp luật hình sự với bất kì cơ quan, tổ chức nào. Luật không quy định bắt buộc công dân chỉ được tố giác đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án mà họ có thể tố giác đến cơ quan, tổ chức nào nếu họ thấy thuận tiện. Việc quy định như vậy tạo điều kiện cho việc phát hiện tội phạm được nhanh chóng, thông tin về tội phạm giữa nhân dân và Nhà nước được phát huy hiệu quả cao. Mặc khác, quy định này còn tạo điều kiện cho nhân dân tham gia rộng rãi vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khi cơ quan, tổ chức nhận được thông tin tố giác từ công dân thì phải có trách nhiệm báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản 17.

Tố giác của công dân cần phải được thể hiện hoặc ghi nhận bằng những hình thức nhất định. Tố giác có thể trực tiếp bằng miệng, có thể bằng thư, điện thoại, văn bản…

Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Nếu công dân tố giác qua điện thoại, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải ghi lại họ tên, địa chỉ, số điện thoại của người tố giác, nội dung tố giác để trên cơ sở đó liên hệ với người tố giác, kiểm tra, xác minh nguồn tin tố giác. Tóm lại, khi nhận được tố giác của công dân về bất kỳ tội phạm nào với bất kỳ hình thức nào thì cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận và ghi rõ ngày, tháng, năm tiếp nhận tin báo.

Ví dụ: Bùi Ngọc Trinh đã nhìn thấy hành vi trộm xe của Nguyễn Văn Tân. Bùi Ngọc Trinh có thể gửi thư báo rõ sự việc cho Công an, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc Ủy ban nhân dân, Ban thanh tra…hoặc Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ…

Trên thực tế, cũng có một số đơn tố giác nặc danh cho nên một vấn đề được đặt ra là: có cần xem xét đơn tố giác đó hay không. Có ý kiến cho rằng, không nên xét đơn vì có

17Xem điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự.

CBHD: Mạc Giáng Châu 22 SVTH: Nguyễn Bích Thủy nhiều trường hợp tố giác nặc danh không đúng sự thật. Tuy nhiên, cũng có không ít trường hợp đơn tố giác không dám nói rõ họ tên, địa chỉ, số điện thoại mình vì sợ bị trả thù hoặc bị trù dập. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét đơn đó. Đồng thời trong trường hợp có thể cơ quan có thẩm quyền phải giải thích cho người tố giác biết trách nhiệm của mình đối với việc tố giác không đúng sự thật. Nếu người tố giác cố ý bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là không đúng sự thật làm xúc phạm, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác thì có thể chịu trách nhiệm hình sự tùy từng mức độ cụ thể18.

Tóm lại, quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tố giác tội phạm đã giúp cho cơ quan có thẩm quyền biết hành vi vi phạm pháp luật được nhanh chóng, kịp thời nhằm đưa ra phương hướng để giải quyết một cách đúng đắn. Trong những hình thức tố giác của công dân thì hộp thư điện tử được áp dụng rộng rãi và đạt kết quả cao, do hình thức này phù hợp với sự phát triển của xã hội, khoa học kỹ thuật ngày càng vươn lên và việc thông tin liên lạc trên mạng là điều phổ biến.

Ví dụ: Ngày 6/12/2006 phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Hà Nội đã thành lập hai hộp thư điện tử theo địa chỉ: canhsathinhsu@fpt hoặc thammucshn@fpt.vn . Sau hơn 10 tháng thực hiện tiếp nhận thông tin nhanh qua mạng internet, cơ quan Công an đã tiếp nhận 453 thông tin tố giác liên quan đến hoạt động của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội. Từ nguồn tin ban đầu, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Hà Nội đã điều tra, khám phá 36 vụ án với 181 đối tượng, trong đó đáng chú ý có 5 vụ cướp tài sản, 9 vụ mại dâm và 7 vụ cờ bạc…Ngoài ra, phòng còn chuyển cho đơn vị khác giải quyết 225 thông tin về tội phạm ở tỉnh ngoài, tin tố giác tội phạm ma túy, tội phạm kinh tế…19. Mặt khác còn một số trang tin điện tử khác để tiếp nhận thông tin tố giác về tội phạm của công dân http://www.vksndtc.gov.vn, www.togiactoipham@canhsat.vn, gopycanhsat@canhsat.vn.

2.1.1.2 Tin báo của cơ quan, tổ chức

Tin báo của cơ quan, tổ chức về tội phạm là những thông tin, thông báo về tội phạm của các cơ quan, tổ chức cho đó là tội phạm hoặc tiếp nhận từ tố giác của công dân và cơ quan, tổ chức phải báo cáo bằng văn bản với Cơ quan điều tra. Tin báo của cơ quan, tổ chức cũng là cơ sở để xác định có dấu hiệu của tội phạm hay không, những tin tức về tội phạm phải được chính thức báo cáo cho Cơ quan điều tra chứ không phải là những lời đồn đại không có căn cứ. Đối với trường hợp cơ quan tổ chức nhận được tố giác của công

18 Xem thêm Điều 122: Tội vu khống Bộ luật hình sự 1999.

19http://vietbao.vn/Xa_hoi/Hop_thu_dien_tư_tiep_nhan_thong_tin_to_giac_toi_pham_phat_huy_tac_dung /452186/44/157/,ngày/26/7/2007.

dân về tội phạm thì cơ quan, tổ chức đó phải tiếp nhận ngay và không được giới thiệu cho họ đến nơi khác. Quy định như vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc tố giác của công dân về tội phạm.

Tóm lại, cũng như đối với công dân, khi phát hiện ra các tin tức về tội phạm, cơ quan, tổ chức cũng có quyền và nghĩa vụ báo tin cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để kịp thời phát hiện và xử lý tội phạm. Mặt khác, cơ quan, tổ chức còn có nghĩa vụ phải tiếp nhận tố giác của công dân và báo cáo với cơ quan có thẩm quyền về tin tức của tội phạm.

Bên cạnh đó, tin báo của cơ quan, tổ chức cũng có mục đích giống tố giác của công dân, đó là nhằm giúp cơ quan có thẩm quyền phát hiện nhanh chóng tội phạm, xử lý nghiêm minh, kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Ví dụ: Ủy ban nhân dân huyện U Minh nhận được tin báo của anh Hoàng Văn Phương, anh Phương đã thấy một xác chết dưới chân cầu. Khi nhận được tin báo đó ủy ban nhân dân huyện U Minh đã báo cáo với Cơ quan điều tra huyện U Minh về nội dung của tin báo đó.

Hai khái niệm “tố giác” và “tin báo” có một số điểm khác nhau. Tin báo là việc báo tin về tội phạm của cơ quan, tổ chức với cơ quan điều tra có thẩm quyền và phải thực hiện tin báo đó dưới hình thức văn bản. Mặt khác, tố giác là việc báo tin về tội phạm của công dân với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào và thể hiện dưới một số hình thức nhất định như: bằng miệng, thư, điện thoại…

Bên cạnh đó, khái niệm “cơ quan, tổ chức” tại khoản 2 Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 rộng hơn so với trước đây. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành khẳng định không chỉ có cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội mà còn có các cơ quan khác tổ chức khác như: cơ quan của sứ quán nước ngoài, các cơ quan nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức của người lao động…cũng có nhiệm vụ tiếp nhận tố giác của công dân và có trách nhiệm báo cho cơ quan tiến hành tố tụng những tin tức về tội phạm.

2.1.1.3 Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng

Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là những tin tức về tội phạm được đưa lên báo chí, đài phát thanh, truyền hình… Khi có tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thu thập, xác minh, xem xét về các tin báo đó xem có dấu hiệu tội phạm hay không rồi mới ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Bởi những tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng có thể là kết quả của việc điều tra của phóng viên hoặc phán ánh thư của công dân về tội phạm.

CBHD: Mạc Giáng Châu 24 SVTH: Nguyễn Bích Thủy Ví dụ: Đối với trường hợp bà mẹ già bị ngược đãi trong vụ việc tại quận Gò Vấp, Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 2004, ông Nguyễn Phúc Diệu có hành vi bạo hành đối với mẹ, Cơ quan điều tra quận Gò Vấp đã tiến hành xem xét có dấu hiệu tội phạm hình sự hay không, bắt nguồn những tin tức của vụ việc này là từ tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.20

Do đó, pháp luật quy định thông tin về tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng (tại khoản 3 Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2003) là cơ sở để khởi tố vụ án hình sự. Pháp luật quy định như vậy nhằm phát huy vai trò to lớn, quan trọng của các phương tiện thông tin đại chúng này là phương tiện mà cơ quan, tổ chức, cá nhân, dễ tiếp cận nhất, mặt khác tin tức trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình phổ biến rộng rãi đến mọi người, nhằm góp phần đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, đấu tranh phòng chống tội phạm góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Ngoài phương tiện thông tin đại chúng trong nước còn có phương tiện thông tin nước ngoài. Những tin báo về tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài có thể giúp Cơ quan điều tra tìm ra được những tin về tội phạm, thuận tiện cho việc theo dõi, xử lý thông tin phục vụ hoạt động phòng chống tội phạm, cụ thể là một số tội có yếu tố nước ngoài: tội phạm khủng bố quốc tế, tội phạm có tính chất xuyên quốc gia, tội phạm buôn lậu, tội phạm về ma túy, tội phạm mua bán người qua biên giới, sản xuất và lưu hành tiền giả, lừa đảo quốc tế, buôn lậu vũ khí…21. Điều này cũng phù hợp với pháp luật vì khoản 3 Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không phân biệt tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong nước hay phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài.

2.1.1.4 Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiều điều kiện phát hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, một số cơ quan khác thực hiện chức năng chính của họ là hành chính – quản lý nhưng do lĩnh vực công tác thường liên quan đến các hành vi phạm tội như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của

20http://baokinhteht.com.vn/home/2009.0225033584649 PO C121/xu-ly-hanh-vi-nguoi-con-nguoc-dai-me- gia.htm,ngày 25/2/2009.

21Xem Bộ luật hình sự 1999.

Một phần của tài liệu lý luận và thực tiễn về khởi tố vụ án hình sự (Trang 25 - 33)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(85 trang)