21 Nguyễn Hà Thanh, Thực trạng tranh tụng hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp, Tạp chí TAND tháng 2/2007 (số 4), trang 2.
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
3.2.1. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật về quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Nghị quyết số 49/NQ-TW đã xác định rõ “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết cảu Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định … Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng…”. Tuy nhiên, việc quán triệt và thực hiện các yêu cầu, nội dung về cải cách tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thật triệt để và sâu sắc. Theo báo cáo sơ bộ 04 năm thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-TW và 03 năm thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW, thì bên cạnh những kết quả đạt được, ở “nhiều địa phương việc thực hiện chủ trương mở rộng tranh tụng
còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng được yêu cầu là các bản án, phán quyết của tòa án chủ yếu phải dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa”22. Vì vậy, tuy đã có nhiều có gắng nhưng tình trạng xử lý oan sai, vi phạm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự vẫn xảy ra do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, đó là:
*/ Tuy đã được sửa đổi bổ sung theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW về cải cách tư pháp, nhưng các chế định của BLTTHS hiện hành về các nguyên tắc của tố tụng hình sự; về phân định các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự (buộc tôi, bào chữa và xét xử )giữa các chủ thể tham gia tố tụng hình sự; phân loại các chủ thể tham gia tố tụng; các thủ tục điều tra, truy tố và xét xử … vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đặc biệt là vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Nhiều quy định trong tố tụng hình sự hiện hành liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa (về các nguyên tắc, về địa vị pháp lý và chức năng của các chủ thể, về trình tự xét hỏi, các hoạt động điều tra công khai, tranh luận tại phiên tòa, hình thức phiên tòa…) vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa rõ ràng, cụ thể lại thiếu sự hướng dẫn kịp thời của cơ quan có thẩm quyền nên việc nhận thức và áp dụng trong thực tiễn còn nhiều điểm không thống nhất, vướng mắc,… Điều đó hạn chế rất lớn đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong tranh tụng, dẫn đến tình trạng lúng túng, đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến chất lương xét xử các vụ án hình sự không cao, vẫn còn tình trạng vi phạm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; làm oan người vô tội.
*/ Các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của BLTTHS về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đặc biệt là ở giai đoạn điều tra: Theo quy định của BLTTHS thì bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều 34) và các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ cua mình. Tuy nhiên, trên thực tế, bị can và nhứng người tham gia tố tụng thường không biết được quyền của họ được mời luật sư bào chữa từ khi khởi tố bị can. Trong các biên bản lấy lời khai của bị can không phản ánh đầy đủ việc điều tra viên giải thích các quyền và nghĩa vụ của bị can theo quy định tại Điều 34 – BLTTHS. Việc thực hiện quy định cảu BLTTHS về các trường hợp bắt buộc phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho 22 Nguyễn Hà Thanh, Thực trạng tranh tụng hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp, Tạp chí TAND tháng 2/2007 (số 4), trang 2.
bị cáo nhưng trên thực tế không được cơ quan điều tra thực hiện nghiêm chỉnh. Việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa thủ tục còn nhiều phiền hà, thậm chí có nhiều vụ việc cơ quan tiến hành tố tụng còn gây khó khăn cho luật sư trong việc tiếp xúc hồ sơ cũng như gặp gỡ bị can bị tạm giam. Do không có sự tham gia của luật sư ở giai đoạn điều tra nên tình trạng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình… vẫn xảy ra trong quá trình điều tra, xét hỏi.
*/ Trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của nhiều kiểm sát viên còn hạn chế nên không phát hiện kịp thời các vi phạm tố tụng trong giai đoạn điều tra. Việc xét hỏi và tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn là khâu yếu trong cấp sơ thẩm (nhất là ở cấp huyện). Hiện nay một số kiểm sát viên vẫn còn quan niệm không đúng cho rằng việc xét hỏi tại phiên tòa là trách nhiệm của hội đồng xét xử, còn kiểm sát viên chỉ có nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng và kiểm sát việc tuân theo pháp luật nên việc tham gia xét hỏi còn chung chung hoặc trùng lặp với nội dung mà hội đồng xét xử đã xét hỏi. Việc đưa ra chứng cứ, lập luận bảo vệ quan điểm truy tố trong nhiều vụ án chưa có sức thuyết phục, chất lượng luận tội và đối đáp còn hạn chế, lúng túng trước các tình huống phát sinh tại phiên tòa. Một số kiểm sát viên còn tâm lý ngại tranh luận với luật sư, thái đố thiếu bình tĩnh, thiếu tự tin, xử lý tình huống phát sinh tại phiên toàn lúng túng hoặc tránh né các vấn đề, các tình tiết của vụ án cần tranh luận làm sáng tỏ tại phiên tòa. Trong nhiều trường hợp, nội dung luận tội còn dài dòng (chủ yếu vẫn là những nội dung đã được chuẩn bị trước, nặng về đánh giá cáo trạng) mà chưa bám sát kết quả xét hỏi và diễn biến tại phiên tòa hoặc chưa bao quát đầy đủ quan điểm về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Một số kiểm sát viên tranh luận, đối đáp chưa có căn cứ thuyết phục, có trường hợp đề xuất ý kiến giải quyết vụ án chưa chính xác.
*/ Đội ngũ thẩm phán các cấp chưa được chuẩn bị đầy đủ kỹ năng nghề nghiệp theo yêu cầu cải cách tư pháp, chưa kịp thời đổi mới tư duy và phương pháp công tác nên việc thực hiện chức năng xét xử tại phiên tòa vẫn theo nếp cũ. Mặt khác, do cơ chế làm việc, sự hạn chế về trình độ nghiêp vụ và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ thẩm phán nên nguyên tắc “khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” chưa có tính khả thi cao trên thực tế. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa vẫn tiến hành theo thói quen trước đây mà chưa thực sự đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết 08/NQ-TW và Nghị quyết 49/NQ-TW. Việc xét hỏi chủ yếu vẫn do hội đồng xét xử (chủ tọa phiên tòa) thực hiện nên chưa phát huy được vai trò tích cực, chủ động của
kiểm sát viên, luật sư và những ngowif tham gia tố tụng khác trong xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa để làm sáng tỏ các tình tiết, các chứng cứ, tài liệu về vụ án. Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, luật sư còn lúng túng trong việc xác định phạm vi, giới hạn và các nội dung cần xét hỏi của mình. Việc xét hỏi còn dàn trải, chưa tập trung vào các tình tiết của vụ án mà các chứng cứ có trong hồ sơ chưa đầy đủ hoặc mâu thuẫn. Trong trường hợp bị cáo chối tội, hội đồng xét xử thường xét hỏi theo hướng buộc tội đến cùng mà không yêu cầu kiểm sát viên xét hỏi để làm rõ các chứng cứ buộc tội nhằm bảo vệ cáo trạng. Việc công bố các tài liệu, chứng cứ không phù hợp với thời điểm xét hỏi. Trong nhiều vụ án, do kiểm sát viên, luật sư không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, không bám sát kết quả xét hỏi hoặc kỹ năng tranh tụng hạn chế nên mặc dù thời gian tranh luận kéo dài nhưng chất lượng tranh tụng chưa cao, không đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Gặp trường hợp này, một số ít thẩm phán còn lúng túng trong xử lý tình huống: cắt lới của các bên thì sợ phản đối hoặc cho rằng tòa án không bảo đảm dân chủ, bình đẳng tại phiên tòa,… trong nhiều phiên tòa thẩm phán chủ tọa còn lúng túng trong xử lý tình huống, chưa chủ động điều khiển quá trình tranh luận, đối đáp cảu các bên, nhất là đối với các vụ án có đông bị cáo và nhiều luật sư tham gia nên mặc dù thời gian tranh luận kéo dài nhưng chất lượng luận tội và bào chưa không cao, việc tranh luận, đối đáp của các bên không đi vào trọng tâm các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
*/ Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự chưa được coi trong đúng mức cả từ góc độ các cơ quan tiến hành tố tụng, từ góc độ nhận thức cảu nhân dân, cũng như của bị can, bị cáo và gia đình họ. Đội ngũ luật sư ở nước ta vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về trình độ nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng nên chưa nhận thực đúng đắn về vai trò, vị trí của mình là một bên trong tranh tụng, chưa bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhận thực pháp luật của các tầng lớp nhân dân nói chung và của bị can, bị cáo và gia đình họ về vai trò, vị trí của luật sư trong tố tụng hình sự còn nhiều hạn chế. Chất lượng bào chữa của các luật sư chỉ định còn hạn chế, nghiên cứu hồ sơ mang tính hình thức, chiếu lệ, không tích cực tham gia xét hỏi, việc tranh luận, đối đáp với kiểm sát viên chưa có sức thuyết phục. Trong khi đó các dịch vụ pháp lý miễn phí cho bị can, bị cáo ở nước ta mới chỉ triển khai chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Mặt khác, việc nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng không đúng và đầy đủ lại không được các cơ quan tiến
hành tố tụng hướng dẫn, giải thích nên các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ không được thực hiện đầy đủ.
3.2.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được quy định rất rõ ràng trong các văn bản pháp luật nước ta, từ các bản Hiến pháp đến các Bộ luật. Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung (ngày 22/12/1992 và ngày 26/11/2003), nhiều chế định của Bộ luật được sửa đổi; bổ sung đáng kể, trong đó phải kể đến chế định quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Chế định quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được bổ sung, hoàn thiện rất nhiều so với trước đây, điều đó giúp cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện; giảm thiểu những vụ án oan, sai; góp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng đã xuất hiện những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn điều tra, truy tố cho đến xét xử (như đã phân tích ở chương 2) mà nguyên nhân của nó một phần là pháp luật chưa hoàn thiện: pháp luật chưa quy định đầy đủ hoặc thiếu những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành…
Để nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự nói chung, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam thì cần phải có sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
- Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTHS và các quyết định khác của pháp luật có liên quan theo hướng đề cao vị trí, vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự; đồng thời xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm cho người bào chữa thực hiện được các quyền của mình trên thực tế. Pháp luật cần xác định vị trí bình đẳng và độc lập của người bào chữa với cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, cơ quan điều tra nói riêng trong hoạt động tố tụng hình sự. Qua đó, làm thay đổi căn bản quan niệm về người bào chữa với tư cách là người tham gia tố tụng, nhằm phát huy hơn nữa vai trò tích cực và chủ động của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Thứ hai, để tăng cường trách nhiệm của Điều tra viên trong việc tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia tố tụng hình sự, cần sửa đổi; bổ sung quy định tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS theo hướng: người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; nếu Điều tra viên không đồng ý thì phải có lý do chính đáng và ghi rõ vào biên bản.
- Thứ ba, pháp luật tố tụng hình sự nêu mở rộng quyền điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; đó là quyền gặp và lấy lời khai của bị can, quyền thu thập chứng cứ để chứng minh cho việc không phạm tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ của mình. Quá trình thu thập chứng cứ, tiến hành điều tra của người bào chữa không chỉ giúp cho thân chủ của mình chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mà còn góp phần bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, tiết kiệm được thời gian, vật chất cho nhà nước khi cuộc điều tra được tiến hành công khai, nhanh chóng. Để có cơ chế bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền này, pháp luật cần quy định rõ nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng khi sử dụng các đồ vật, tài liệu cho người bào chữa thu thập được trong quá trình điều tra, tránh tình trạng bỏ sót những chứng cứ có lợi cho việc chứng minh sự vô tội của bị can. Đồng thời, để tránh trường hợp người bào chữa lạm dụng quyền năng tố tụng của mình vì mục đính tư lợi hoặc gây khó khăn cho việc điều tra vụ án của cơ quan điều tra, cho nên cần có quy định phù hợp về cơ chế giám sát đối với hoạt động của người bào chữa ở giai đoạn này.
- Thứ tư, cần phải sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về việc người bào chữa tiếp xúc với bị can trong nhà tạm giữ, trại tạm giam theo hướng: Bị can được tạo cơ hội, thời gian và phương tiện để người bào chữa đến gặp mặt trong thời gian làm việc hành chính, trao đổi hay tư vấn mang tính chất riêng biệt. Những thông tin, trao đổi giữa người bào chữa và bị can không được coi là những chứng cứ chống lại họ.