Bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được coi là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Như vậy, so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì quyền bào chữa được mở rộng đối tượng là người bị tạm giữ (điểm d khoản 2 Điều 48). Việc bổ sụng quyền này cho người bị tạm giữ được xuất phát từ quan điểm cho rằng người bị tạm giữ được xác định là người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự, do vậy, họ có quyền được bào chữa.
Nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung đầy đủ hơn các quyền của người tham gia tố tụng: được khiếu nại đối với các quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà có liên quan đến họ; được quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng đã bổ sung quy định nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đối với người tham gia tố tụng. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị can, bị cáo có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
Đối với người bào chữa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định cho phép người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn so với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, cụ thể: người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Việc quy định như vậy nhằm bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần chống oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Quyền của người bào chữa cũng được mở rộng hơn: được có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và được hỏi người bị tạm giữ, bị can khi được Điều tra viên đồng ý; được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mình bào chữa; được đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gia và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Khi tham gia tố tụng, ngoài quyền được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép như quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, người bào chữa còn được quyền sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện nhiệm vụ bào chữa của mình.
Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhấn mạnh:
quyền Quyền mới của người bào chữa là được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác [539].
Cùng với việc ghi nhận quyền mới của người bào chữa như trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của người bào chữa phải tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nếu người bào chữa khi làm trái luật pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
Tự bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo và là nội dung quan trọng của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự. Pháp luật cho phép bị can, bị cáo được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng như đưa ra đồ vật, tài liệu và những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố tụng mà không nhất thiết phải có sự tham gia của người bào chữa. Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội dung của quyền bào chữa, nó có tác dụng bổ sung cho nhau chứ không triệt tiêu lẫn nhau và có thể cùng song song tồn tại. Điều này có nghĩa là khi bị can, bị cáo nhờ người khác bào chữa cho mình thì họ vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại, như tại phiên tòa sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội và bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Bị cáo là chủ thể của một bên tranh tụng (bên bào chữa), bị buộc tội trực tiếp, họ có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội (Điều 10 – BLTTHS năm 2003). Bị cáo tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm để bào chữa cho sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình, đồng đảm bảo
cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ bị cáo, người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội mới hiểu đầy đủ, rõ ràng về các tình tiết của vụ án hơn ai hết, chính họ mới thực hiện quyền bào chữa một cách khách quan và toàn diện nhất trước sự buộc tội.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì bị can là người đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự. Việc khởi tố bị can chỉ được tiến hành khi có đủ căn cứ xác định họ đã thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, có thể hiểu rằng, bị can là người bị buộc tội bởi quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù bị can là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng với tư cách là một chủ thể của hoạt động tố tụng hình sự, họ luôn được pháp luật tạo cho mọi khả năng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản pháp luật khác đã quy định đầy đủ các quyền của bị can trong tố tụng hình sự.
* / Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.
Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ tên, ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm. Nếu bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự được áp dụng. Trong trường hợp cần thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, bị can cũng có quyền nhận quyết định này để biết mình bị khởi tố về tội gì và chuẩn bị bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ được pháp luật thừa nhận. Mặc dù quyết định khởi tố bị can chưa khẳng định bị can là người có tội nhưng trong nhiều trường hợp nó đã dẫn đến những hậu quả nhất định đối với họ. Đó là họ có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng như tạm giam hoặc cũng có thể bị đình chỉ chức vụ mà họ đang đảm nhiệm nếu thấy để họ tiếp tục giữ chức vụ ấy sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Quy định này là một biểu hiện công minh, tiến bộ. Một người khi bị khởi tố với tư cách là bị can, họ phải biết tại sao mình bị khởi tố. Trường hợp bị khởi tố mà họ không phạm tội thì họ có quyền đưa ra các chứng cứ nhất định để chứng minh là mình vô tội; có quyền khiếu nại và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét. Mặt khác, bị can có quyền được biết mình bị khởi tố
về tội gì sẽ hạn chế được tình trạng ra quyết định khởi tố bị can một cách tùy tiện, thiếu căn cứ theo quy định của pháp luật.
*/ Bị can có quyền trình bày lời khai, đưa ra tài liệu, đồ vật và những yêu cầu
(như lấy lời khai của người làm chứng, xem xét vật chứng, trưng cầu giám định…), đây là những quy định hoàn toàn mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Khai báo là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của bị can, bị can có thể nhận tội hoặc đưa ra những lý lẽ bào chữa cho mình, vì vậy lời khai của bị can là một nguồn chứng cứ vô cùng quan trọng. Để khuyến khích bị can khai báo đúng sự thật, Điều 46 – Bộ luật hình sự năm 1999 quy định việc thành khẩn khai báo là một trong những tình tiết giảm nhẹ khi Tòa án quyết định hình phạt, tuy nhiên, nếu bị can khai báo không thành khẩn thì pháp luật không coi đó là tình tiết tăng nặng. Trong trường hợp bị can không chịu khai báo thì việc đó không ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng, tức là các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tiến hành bình thường việc thu thập, kiểm tra và đánh giá tất cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội để xác định rõ hành vi phạm tội của bị can. Theo Điều 10 – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”ội. Do vậy, nếu như bị can có hành vi từ chối khai báo, thậm chí là khai báo gian dối hoặc có thái độ bất hợp tác thì không được cho rằng đây là hành vi chống đối. Pháp luật không thể yêu cầu hoặc bắt buộc một con người cụ thể có nghĩa vụ phải đưa ra bằng chứng để buộc tội mình, chống lại mình; vì điều đó hoàn toàn vô lý và đi ngược lại lý trí cũng như lương tri. Nói cách khác, bị can không có nghĩa vụ tự tố giác mình, thậm chí pháp luật còn quy định: lời nhận tội của bị can chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu nó phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can làm chứng cứ duy nhất để kết tội. Điều này cũng phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại, khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1996 quy định: “… Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách bình đẳng và đầy đủ những đòi hỏi tối thiểu sau đây: không bị ép buộc phải chứng minh chống lại mình hoặc buộc tự thú là mình có tội”17[1260].