1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008 2012 nghiên cứu khoa học

50 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng, Nguyên Nhân Và Giải Pháp Cho Tình Trạng Nợ Xấu Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Giai Đoạn 2008-2012
Tác giả Võ Mai Thế Linh
Người hướng dẫn ThS. Dương Tấn Khoa
Trường học Trường Đại Học Mở Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh tế
Thể loại báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học
Năm xuất bản 2013
Thành phố TP.HCM
Định dạng
Số trang 50
Dung lượng 0,97 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (13)
    • 1.1. Các khái niệm cơ bản (13)
      • 1.1.1. Rủi ro tín dụng (13)
      • 1.1.2. Nợ xấu (13)
    • 1.2. Sự cần thiết phải xử lí nợ xấu trong Ngân hàng thương mại (16)
  • Chương 2: KHÁI QUÁT VỀ NGHÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ 2008 ĐẾN THÁNG 9/2012 (17)
  • Chương 3: PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN GÂY RA TÌNH TRẠNG NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009-2011 23 3.1. Những nghiên cứu trươc đây về nợ xấu của Ngân hàng thương mại (25)
    • 3.2. Các giả thuyết nghiên cứu (28)
      • 3.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế (28)
      • 3.2.2. Nợ công (29)
      • 3.2.3. Những yếu tố nội tại của NHTM (30)
    • 3.3. Mô hình nghiên cứu (33)
    • 3.4. Phương pháp chọn mẫu và thu thập số liệu nghiên cứu (34)
    • 3.5. Phương pháp nghiên cứu và các kết quả thống kê (36)
      • 3.5.1. Thống kê mô tả (36)
      • 3.5.2. Hồi quy đa biến (37)
    • 3.6. Kết luận nghiên cứu (40)
  • Chương 4: KIẾN NGHỊ NGHIÊN CỨU VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (42)
  • Chương 5: KẾT LUẬN (46)
  • PHỤ LỤC (49)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Các khái niệm cơ bản

1.1.1 Rủi ro tín dụng Để hiểu về nợ xấu, chúng ta xuất phát từ khái niệm rủi ro tín dụng.Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro Trên thế giới, người ta phân ra nhiều loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng, tiêu biểu nhất là rủi ro trong hoạt động tín dụng

Tín dụng là mối quan hệ vay mượn tiền tệ giữa người cho vay (ngân hàng) và người vay (doanh nghiệp), bao gồm việc hoàn trả cả gốc lẫn lãi Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động sản xuất và kinh doanh.

Có sáu loại hình quan hệ tín dụng chính, bao gồm tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế Mỗi loại hình tín dụng này đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các hoạt động kinh tế khác nhau và đáp ứng nhu cầu tài chính của cá nhân cũng như doanh nghiệp.

Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội, cũng như các tổ chức tín dụng khác, dựa trên nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi.

Hoạt động tín dụng là quá trình mà tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có và nguồn huy động từ bên ngoài để cấp tín dụng Theo Điều 49 của Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, tổ chức tín dụng có quyền cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân thông qua các hình thức như cho vay, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Rủi ro trong hoạt động tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng hoàn trả được lãi vay hay cả gốc lẫn lãi

Rủi ro tín dụng được xem là thách thức lớn nhất mà ngân hàng phải đối mặt, buộc các tổ chức tài chính này phải nỗ lực kiểm soát khả năng hoàn trả nợ Điều này đòi hỏi ngân hàng phải đưa ra các dự đoán và đánh giá chính xác về khả năng trả nợ của khách hàng.

Nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại

Nợ xấu là các khoản vay không thể thu hồi từ khách hàng, thường là doanh nghiệp, do họ làm ăn thua lỗ hoặc phá sản Đối với ngân hàng, nợ xấu trở thành chi phí khác, làm giảm thu nhập Do đó, doanh nghiệp cần ước tính nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa trên dữ liệu nợ xấu trước đó Hầu hết các công ty đều chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu nhất định trong tổng nợ, vì không thể thu hồi toàn bộ khoản nợ một cách triệt để.

Ngân hàng hiện nay thực hiện phân loại nợ theo khách hàng nhằm phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, nợ được phân loại thành 5 loại dựa trên hai phương pháp: định tính và định lượng.

Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm nợ trung hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán

Nhóm 2: nợ cần chú ý bao gồm nợ quá hạn < 90 ngày và nợ có cấu lại thời hạn nợ

Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 -180 ngày người nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn < 90 ngày

Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày

Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn bao gồm nợ quá hạn > 360 ngày và nợ cơ cấu thời hạn trả nợ > 180 ngày người nợ khoanh chờ chi phí xử lý

Nợ được phân loại thành 5 nhóm dựa trên phương pháp định lượng, không chỉ dựa vào số ngày quá hạn thanh toán mà còn dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được ngân hàng nhà nước chấp thuận.

Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn

Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ

Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi cho đến khi đến hạn

Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh là có khả năng tổn thất cao

Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn

Theo Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước, nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 được coi là nợ xấu, và những khoản nợ xấu này là nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng.

Có nhiều tiêu chí đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại:

- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ

- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu

- Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất

- Nợ nghi ngờ, nợ có khả năng chuyển thành nợ xấu cao

- Nợ không có tài sản bảo đảm Để tránh các khoản nợ xấu, hay tránh rủi ro tín dụng, ngân hàng cố gắng

Khách hàng phá sản, lừa đảo và không chịu trả nợ (thuộc nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn) là dấu hiệu rõ ràng nhất về rủi ro tín dụng Ngoài ra, các khoản nợ ngắn hạn không trả được ở các cấp độ (thuộc nhóm 3, 4: nợ dưới tiêu chuẩn và nợ nghi ngờ) cũng cần được chú ý Nhiều ngân hàng cho rằng, khi một khoản nợ đến hạn không được thanh toán, các khoản nợ khác chưa đến hạn cũng có thể bị coi là rủi ro Ngay cả khi nợ chưa đến hạn hoặc vẫn có khả năng thanh toán, tình hình tài chính yếu kém và môi trường kinh doanh không thuận lợi cũng khiến khoản nợ đó trở thành rủi ro Do đó, vấn đề không chỉ đơn thuần là tỷ lệ nợ xấu chiếm 2%.

Nợ xấu chiếm 7% tổng dư nợ, nhưng việc định lượng có thể thay đổi tùy thuộc vào cách tiếp cận Kết quả này phụ thuộc vào sự nghiêm túc của cán bộ ngân hàng trong việc đánh giá nợ xấu và rủi ro tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến chính sách quản trị rủi ro được áp dụng.

Sự cần thiết phải xử lí nợ xấu trong Ngân hàng thương mại

Khi ngân hàng đối mặt với nợ xấu lớn, khả năng thu hồi nợ từ khách hàng giảm sút, buộc ngân hàng phải sử dụng vốn để bù đắp cho các khoản mất mát Nếu tình trạng này kéo dài, ngân hàng có thể không còn khả năng "xóa sổ" các khoản thất thoát, dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền.

Ngành ngân hàng rất nhạy cảm và phụ thuộc vào lòng tin của người gửi tiền Khi thông tin về khả năng trả nợ của ngân hàng trở nên không chắc chắn, người gửi tiền sẽ nhanh chóng rút tiền, dẫn đến nguy cơ ngân hàng bị phá sản.

Ngân hàng Trung ương của mỗi quốc gia có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng Sự thất thoát trong hoạt động tín dụng, dù chỉ xảy ra tại một ngân hàng và ở mức độ nhỏ, cũng có thể gây ra nguy cơ đe dọa đến sự an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Nợ xấu tại Việt Nam chủ yếu xuất phát từ sự gia tăng nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản liên quan đến các công trình đầu tư công Ông Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh rằng việc Nhà nước chậm thanh toán các khoản đầu tư công sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp thầu Do đó, việc giải quyết nợ xấu và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là rất cần thiết để phục hồi sự năng động của nền kinh tế Việt Nam.

KHÁI QUÁT VỀ NGHÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ 2008 ĐẾN THÁNG 9/2012

Tình hình nợ xấu hiện nay vẫn chưa được giải quyết triệt để, với sự gia tăng nợ xấu trong các ngân hàng Đến tháng 12/2006, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển với 80% thị phần thuộc về ngân hàng thương mại nhà nước, tổng vốn tự có chỉ trên 1 tỷ USD, chưa đạt hệ số an toàn vốn tối thiểu 8% Khả năng tăng vốn và xử lý nợ xấu của các ngân hàng còn yếu, bao gồm 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 5 ngân hàng liên doanh, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 46 văn phòng đại diện, 6 công ty tài chính, 10 công ty cho thuê tài chính và hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân.

Biểu đồ 1: Số lượng ngân hàng thương mại qua các năm

Trước đây, các ngân hàng thương mại quốc doanh đóng vai trò chủ chốt trong việc hỗ trợ khu vực kinh tế nhà nước nhờ vào lợi thế về vốn và thị phần Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân đã dẫn đến sự phát triển đáng kể của các ngân hàng thương mại cổ phần trong những năm gần đây Những ngân hàng này không chỉ tăng trưởng nguồn vốn mà còn mở rộng mạng lưới hoạt động, phục vụ hiệu quả cho khu vực dân cư và doanh nghiệp nhỏ và vừa Từ đó, thu nhập của các ngân hàng thương mại cổ phần cũng gia tăng.

Trong năm 2007, tốc độ tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần đạt khoảng 94% so với năm 2006, với mức tăng trưởng hàng năm từ 60% đến 120% Ngược lại, các ngân hàng thương mại quốc doanh chủ yếu tập trung vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước, dẫn đến mức tăng trưởng thu nhập chỉ đạt khoảng 20% mỗi năm.

Giai đoạn 2006 - 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và vốn, dẫn đến sự gia tăng đáng kể của sở hữu chéo trong ngành ngân hàng.

Hầu hết các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước tại Việt Nam đều có ngân hàng riêng, ví dụ như Tập đoàn Điện lực Việt Nam sở hữu Ngân hàng TMCP An Bình, Tập đoàn Viễn thông Quân đội sở hữu Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam và Tập đoàn Cao su sở hữu Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội, cùng với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam sở hữu Ngân hàng TMCP Đại Dương.

Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, sở hữu chéo giữa các ngân hàng và doanh nghiệp diễn ra dưới hai hình thức chính: ngân hàng sở hữu lẫn nhau và doanh nghiệp sở hữu ngân hàng Hiện tại, Ngân hàng TMCP Hàng Hải (Maritime Bank) thuộc sở hữu của Agribank, trong khi Maritime Bank lại nắm giữ cổ phần tại MB và Ngân hàng Phát triển Mê Kông (MDB) Tình hình trở nên phức tạp khi Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) sở hữu Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), trong khi Eximbank lại sở hữu Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Thương Tín (Sacombank) Ngoài ra, ACB còn nắm giữ cổ phần tại các ngân hàng khác như Đại Á, Kiên Long, và Việt Nam Thương Tín.

Sở hữu chéo không chỉ nâng cao sự hiểu biết giữa ngân hàng và doanh nghiệp mà còn tạo ra một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực tài chính.

Sở hữu chéo trong ngành ngân hàng mang lại những lợi ích nhất định, nhưng cũng bộc lộ nhiều mặt trái, đặc biệt là những vấn đề ngày càng nghiêm trọng trong những năm gần đây Các ngân hàng thương mại đã lợi dụng sở hữu chéo để né tránh các quy định về an toàn hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước đã đặt ra, dẫn đến những trục trặc trong hệ thống ngân hàng.

Thứ nhất là quy định về vốn Theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ-

Vốn điều lệ thực góp của các ngân hàng Việt Nam cần đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm 2010 Thông qua hình thức sở hữu chéo, cổ đông của Ngân hàng A có khả năng vay tiền từ Ngân hàng B để đầu tư vào Ngân hàng A, và ngược lại.

17 vay này tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng

Giới hạn tín dụng hiện hành đã bị ảnh hưởng bởi sở hữu chéo, dẫn đến việc các khoản tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước từ ngân hàng thương mại nhà nước vượt quá hạn mức được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt Hơn nữa, quy định về các trường hợp không được cấp tín dụng hoặc hạn chế cấp tín dụng cũng đã bị vi phạm.

Theo kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và căn cứ vào Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cùng Thông tư 13/2010/TT-NHNN, hoạt động ngân hàng đầu tư cần được tách biệt rõ ràng khỏi ngân hàng thương mại Điều này có nghĩa là ngân hàng không được phép cấp tín dụng cho các công ty con hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán Tuy nhiên, Ngân hàng A có thể mua trái phiếu của Ngân hàng B để tạo điều kiện cho Ngân hàng B thực hiện cho vay, hoặc đầu tư vào trái phiếu của công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ thuộc Ngân hàng A.

Vào thứ tư, các quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro có thể bị ảnh hưởng bởi hiện tượng sở hữu chéo Khi khách hàng không có khả năng trả nợ, Ngân hàng A có thể không phân loại khoản vay thành nợ xấu và thay vào đó thực hiện cho vay đảo nợ, điều này làm sai lệch tinh thần của các quy định hiện hành.

Năm 2006 và 2007 đánh dấu giai đoạn sôi động của ngành ngân hàng Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng huy động vốn đạt 36,5% và dư nợ tín dụng tăng 34% vào năm 2007 Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã thúc đẩy nhu cầu vốn, đồng thời nỗ lực cải cách trong hệ thống ngân hàng cũng đóng góp đáng kể Mạng lưới ngân hàng được mở rộng nhanh chóng, quy mô vốn và năng lực tài chính được nâng cao rõ rệt Công nghệ ngân hàng, quản trị điều hành và chất lượng nguồn nhân lực cũng được cải thiện đáng kể Hơn nữa, mối quan hệ liên doanh và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các tập đoàn tài chính quốc tế và doanh nghiệp Việt Nam ngày càng trở nên chặt chẽ, hướng tới việc hình thành các tập đoàn kinh doanh đa năng.

Biểu đồ 2: Tăng trưởng tín dụng năm 2007-2012 (ĐV: %)

(Nguồn: công ty chứng khoán Phú Hưng)

Vào cuối năm 2007, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng cao, trong khi việc huy động vốn lại chững lại, khiến nhiều ngân hàng cổ phần tăng lãi suất huy động vốn VND Tình trạng này có thể gây mất ổn định mặt bằng lãi suất và dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng trong tương lai.

Kể từ năm 2007, nợ xấu đã có xu hướng gia tăng, trở thành một vấn đề cần được ưu tiên giải quyết trong quá trình tái cấu trúc ngành ngân hàng.

Biểu đồ 3: Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng (ĐV:%)

PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN GÂY RA TÌNH TRẠNG NỢ XẤU CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009-2011 23 3.1 Những nghiên cứu trươc đây về nợ xấu của Ngân hàng thương mại

Các giả thuyết nghiên cứu

Dựa trên các nghiên cứu trước đây và các yếu tố đặc trưng của Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã đề xuất 7 giả thuyết liên quan đến 7 yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của ngân hàng trong giai đoạn 2009-2011.

3.2.1 Sự phát triển của nền kinh tế Đã có rất nhiều những nghiên cứu trước đây chỉ ra mối liên hệ giữa tình trạng nền kinh tế của một quốc gia đối với chất lượng của những khoản nợ trong quốc gia đó Trong đó, nghiên cứu của Salas và Saurina(2002) đã tìm ra mối tương quan nghịch chiều giữa tốc độ tăng trưởng GDP và nợ xấu của các NHTM, từ đó suy ra kết luận về mối liên hệ thuận chiều giữa sự phát triển của nền kinh tế vĩ mô và khả năng trả nợ của cac thành phần kinh tế khác nhau

Khi nền kinh tế phát triển mạnh, doanh nghiệp dễ dàng thanh toán gốc và lãi suất các khoản vay ngân hàng Tình hình kinh doanh tốt giúp công nhân viên có thu nhập ổn định và dồi dào, từ đó họ cũng có khả năng trả nợ ngân hàng một cách thuận lợi.

Khi nền kinh tế suy thoái, môi trường kinh doanh trở nên khó khăn, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều rủi ro, dẫn đến thua lỗ, thu hẹp hoặc ngừng hoạt động Điều này làm gia tăng nợ xấu cho ngân hàng, khi các khoản vay doanh nghiệp trở thành nợ quá hạn và khó đòi Hệ quả là khách hàng cá nhân cũng bị ảnh hưởng tiêu cực, khi doanh nghiệp sa thải nhân viên, dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng Nhiều khách hàng cá nhân mất nguồn thu nhập, không còn khả năng thanh toán các khoản vay ngân hàng.

Ngoài ra, tình trạng của nền kinh tế còn ảnh hưởng tới tình trạng nợ xấu của

Khi nền kinh tế suy thoái, giá trị và tính thanh khoản của tài sản đảm bảo, chủ yếu là bất động sản, sẽ giảm sút Tại Việt Nam, 72% dư nợ có tài sản bảo đảm, trong đó 66% là bất động sản Theo báo cáo, hơn 80% trong số 4,9% nợ xấu có tài sản bảo đảm, và 57% trong số đó là bất động sản Thị trường bất động sản thường bị ảnh hưởng nặng nề trong thời kỳ suy thoái, dẫn đến giá giảm mạnh và tính thanh khoản kém, từ đó làm gia tăng tình trạng nợ xấu tại các ngân hàng thương mại.

Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu xem xét tốc độ tăng trưởng GDP như một chỉ số quan trọng phản ánh sự phát triển của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến tình trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam Giả thuyết được đưa ra là sự gia tăng tốc độ tăng trưởng GDP sẽ dẫn đến việc giảm tỷ lệ nợ xấu và ngược lại Do đó, giả thuyết đầu tiên có thể được phát biểu như sau:

(H1)“Sự phát triển của nền kinh tế”: nền kinh tế phát triển sẽ khiến nợ xấu của các NHTM giảm”

Mối liên hệ giữa khủng hoảng nợ công và khủng hoảng ngân hàng đã được xác định qua các cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu Nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2010) chỉ ra rằng khủng hoảng ngân hàng thường xảy ra trước hoặc đồng thời với khủng hoảng nợ công Thực tế này đã được minh chứng tại Hy Lạp và nhiều quốc gia khác trong bối cảnh khủng hoảng tài chính.

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, khủng hoảng nợ công có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng thương mại có vốn góp của nhà nước Khi xảy ra khủng hoảng tài chính công, sự mất tín nhiệm đối với các ngân hàng này gia tăng, dẫn đến khó khăn trong việc duy trì thanh khoản.

Nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2010) chỉ ra rằng trong bối cảnh nợ công gia tăng, các ngân hàng sẽ phải thắt chặt việc cho vay, khiến người vay không thể tái cấu trúc nợ Sự gia tăng nợ công dẫn đến cắt giảm chi tiêu công, đặc biệt là trong lĩnh vực an sinh xã hội và lương cho công chức (Nghiên cứu của Perotti, 1996) Điều này có thể tạo ra nợ xấu cho ngân hàng do thu nhập hộ gia đình bị ảnh hưởng tiêu cực, đồng thời nợ của doanh nghiệp cũng bị đe dọa do suy giảm tổng cầu.

(H2) “Nợ công” : Sự gia tăng của nợ công sẽ dẫn đến sự gia tăng nợ xấu của các NHTM

3.2.3 Những yếu tố nội tại của NHTM

Nợ xấu ngân hàng không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô mà còn bởi những đặc điểm riêng của ngành ngân hàng và chính sách của từng ngân hàng thương mại (NHTM) Các yếu tố này liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động và chính sách quản lý rủi ro của ngân hàng, từ đó tác động đến tình hình nợ xấu chung trong toàn ngành Nhóm nghiên cứu sẽ phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố nội tại của ngân hàng và tình trạng nợ xấu.

Nghiên cứu của Berger và DeYoung (1997) đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng cho vay và hiệu quả quản lý ngân hàng Bài nghiên cứu này sẽ áp dụng giả thuyết liên quan đến yếu tố này từ công trình của họ.

(H3)“Hiệu quả hoạt động”: Hiệu quả hoạt động của ngân hàng kém sẽ dẫn đến sự gia tăng của nợ xấu

Hiệu quả hoạt động kém trong ngân hàng thường xuất phát từ những yếu kém trong kinh nghiệm và kỹ năng của lãnh đạo và nhân viên, đặc biệt trong các hoạt động cho vay như chấm điểm tín dụng, định giá tài sản thế chấp và theo dõi người vay Những vấn đề này có thể dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao.

Nghiên cứu của Berger và DeYoung đã cung cấp bằng chứng thống kê ủng hộ giả thuyết về hiệu quả hoạt động, trong khi nghiên cứu của Podpiera và Weill (2008) cũng xác nhận điều này Dựa trên những phát hiện từ hai nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng tỷ số ROE để đại diện cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Khả năng đa dạng hóa của ngân hàng, bao gồm đối tượng cho vay và danh mục đầu tư, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khoản cho vay Ngân hàng có khả năng đa dạng hóa tốt hơn sẽ có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn nhờ vào việc giảm rủi ro trong đầu tư và cho vay Nghiên cứu của Dimitrios và cộng sự (2011) chỉ ra rằng khả năng đa dạng hóa được thể hiện qua tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập, cho thấy mức độ phụ thuộc của ngân hàng vào thu nhập từ lãi Khi tỷ lệ này cao, ngân hàng có thể thu hút phần lớn thu nhập từ các khoản phí và nguồn khác, giúp họ tự tin hơn trong việc đa dạng hóa đối tượng khách hàng cho vay Điều này cho phép ngân hàng lựa chọn kỹ càng hơn đối tượng cho vay, từ đó giảm thiểu nợ xấu.

(H4) “Khả năng đa dạng hóa”: Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập của ngân hàng có quan hệ nghịch chiều với nợ xấu

Sự ỷ lại của các ngân hàng thương mại vào sự can thiệp của ngân hàng nhà nước là một nguyên nhân chính dẫn đến gia tăng nợ xấu Ở nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam, nhà nước thường can thiệp để cứu ngân hàng khi gặp khủng hoảng, như trong sự kiện "tin đồn tổng giám đốc ngân hàng ACB bỏ trốn" năm 2003 Điều này đã tạo ra xu hướng các ngân hàng gia tăng rủi ro trong hoạt động cho vay để đạt lợi nhuận cao hơn, thể hiện qua việc đòn bẩy nợ gia tăng và huy động vốn quá mức Nghiên cứu của Boyd và Gertler (1994) chỉ ra rằng trong thập niên 1980, các ngân hàng lớn của Mỹ đã theo đuổi những danh mục đầu tư rủi ro hơn.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên 7 giả thuyết đã nêu, nhóm nghiên cứu đề xuất một mô hình nghiên cứu nhằm phân tích nguyên nhân gia tăng nợ xấu, với các giả thuyết được đánh số từ H1 đến H7.

Biểu đồ 8: Mô hình nghiên cứu với 7 yếu tố ảnh hưởng

Các yếu tố từ H1 đến H7 được giả thuyết là các biến độc lập định lượng, có ảnh hưởng trực tiếp đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại (NHTM).

Một cách tổng quát, ta có dạng mô hình hồi quy như sau:

NPL= +β β GDP β Debt β ROE β NIIR β LEVR β LaLOAN β LaNPL ε+ + + + + + +

Phương pháp chọn mẫu và thu thập số liệu nghiên cứu

Nghiên cứu sẽ tập trung vào 20 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam theo quy mô vốn điều lệ, dựa trên thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tính đến ngày 31/12/2012 Thời gian nghiên cứu kéo dài từ năm 2009 đến 2011 Danh sách các ngân hàng thương mại được phân tích sẽ được trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2: Đối tượng nghiên cứu – 20 ngân hàng lớn nhất Việt Nam về vốn điều lệ

STT Tên ngân hàng Tên gọi tắt Vốn điều lệ (Đơn vị:

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Agribank 29,154

2 Công Thương Việt Nam Vietinbank 26,218

3 Ngoại thương Việt Nam Vietcombank 23,174

(H1) Sự phát triển của nền kinh tế

(H4) Khả năng đa dạng hóa (H5) Sự ỷ lại

(H6) Chính sách tín dụng nới lỏng

4 Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV 23,012

6 Sài Gòn Thương Tín Sacombank 10,740

10 Sài gòn – Hà nội SHBank 8,865

11 Kỹ Thương Việt Nam Techcombank 8,788

12 Hàng Hải Việt Nam Maritime Bank 8,000

13 Bưu Điện Liên Việt LienVietPostBank 6,400

15 Phát Triển Nhà TPHCM HDBank 5,300

16 Việt Nam Thịnh vượng VPBank 5,050

Nghiên cứu này chủ yếu dựa vào nguồn số liệu thứ cấp từ các thống kê và báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Tạp chí The Economist, cùng với các báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các ngân hàng trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến 2011 Đối với số liệu vĩ mô, nhóm nghiên cứu đã sử dụng thông tin được công bố bởi các tổ chức quốc tế uy tín Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Việt Nam được lấy từ dữ liệu của ADB, trong khi tỷ lệ nợ công trên GDP cũng được phân tích dựa trên các nguồn số liệu đáng tin cậy.

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng số liệu từ thời báo kinh tế The Economist và tự thu thập báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của 20 ngân hàng để phân tích các yếu tố nội tại của ngân hàng Họ đã tìm kiếm các mục cần thiết trong các báo cáo này và tính toán các tỷ số theo công thức đã được xác định, từ đó hình thành một bộ cơ sở dữ liệu nghiên cứu Sau khi hoàn tất việc tính toán, nhóm đã nhập số liệu vào phần mềm SPSS để tiến hành phân tích.

Nhóm nghiên cứu dự kiến thu thập 60 quan sát trong 3 năm, với 20 quan sát mỗi năm Tuy nhiên, do một số ngân hàng không cung cấp dữ liệu trong một số năm, nhóm chỉ thu thập được 55 quan sát đầy đủ các yếu tố nghiên cứu, cụ thể là 18 quan sát năm 2009, 20 quan sát năm 2010 và 17 quan sát năm 2011.

Theo nghiên cứu của Theo Hair và các cộng sự (1998), để thực hiện phân tích hồi quy đa biến, số lượng mẫu cần thiết phải gấp 5 lần số biến quan sát Với mô hình nghiên cứu có 7 biến quan sát, kích thước mẫu tối thiểu cần có là 35 Do đó, kích thước mẫu 55 là hoàn toàn đủ để tiến hành nghiên cứu một cách hiệu quả.

Phương pháp nghiên cứu và các kết quả thống kê

Kết quả phân tích thông kê mô tả được thực hiện bằng SPSS được thể hiện như bảng dưới đây:

Bảng 3: Kết quả phân tích thống kê mô tả bằng SPSS

Trung bình Độ lệch chuẩn

Kết quả phân tích từ 55 quan sát cho thấy tỷ lệ nợ xấu trung bình đạt 1.8468%, với giá trị thấp nhất là 0.02% và cao nhất là 12.46%, cùng độ lệch chuẩn là 1.82054% Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm trung bình là 6.0271%, tỷ lệ nợ công trên GDP trung bình là 50.58%, và tỷ số lợi nhuận trên vốn trung bình là 14.6904% Bên cạnh đó, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trung bình là 22.9775%, tỷ số nợ trung bình là 91.2866%, tỷ lệ nợ xấu của năm trước trung bình là 1.6685%, và tốc độ gia tăng dư nợ tín dụng trung bình là 45.7716%.

Trong các biến được nghiên cứu, tốc độ gia tăng dư nợ tín dụng năm trước có khoảng biến thiên lớn nhất là 252.72%, với giá trị nhỏ nhất là -31.72% và lớn nhất là 221% Ngược lại, tốc độ tăng trưởng GDP có khoảng biến thiên nhỏ nhất là 1.46%, với giá trị nhỏ nhất là 5.32% và lớn nhất là 6.78% Hai biến này cũng đồng thời là biến có độ lệch chuẩn lớn nhất và nhỏ nhất, với độ lệch chuẩn lần lượt là 40.92452% và 0.61849%.

Nghiên cứu này sử dụng phần mềm SPSS để phân tích tác động của các yếu tố như sự phát triển kinh tế, nợ công, hiệu quả hoạt động, khả năng đa dạng hóa, sự ỷ lại, chính sách tín dụng nới lỏng và tỷ lệ nợ xấu năm trước (các biến độc lập).

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng hệ số xác định R² để đánh giá độ phù hợp của mô hình tỷ lệ nợ xấu, với kết quả được phân tích bằng phần mềm SPSS.

Bảng 4: Đánh giá độ phù hợp của mô hình

R bình phương đã điều chính

Sai số ước tính của độ lệch chuẩn

1 0.596 0.355 0.259 1.56724% a Predictors: (Constant), LaLOAN, ROE, DEBT, LaNPL, LEVR,

Hệ số xác định R² = 0.355 cho thấy mô hình nghiên cứu giải thích 35.5% sự biến động của dữ liệu mẫu Điều này có nghĩa là 35.5% sự khác biệt trong tỷ lệ nợ xấu quan sát có thể được lý giải bởi sự khác biệt của các biến độc lập trong nghiên cứu.

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi quy thông qua kiểm định trị thống kê F, nhằm xác định tính ứng dụng và sự phù hợp của mô hình với tổng thể Các giả thuyết liên quan đã được kiểm tra để đánh giá hiệu quả của mô hình nghiên cứu.

H0: β1 = β2 = β3 = β4 = β5 = β6 = β7 = 0 (Không có mối liên hệ tuyến tính)

H1: Có ít nhất một βi ≠ 0 (Có ít nhất một biến độc lập ảnh hưởng tới biến phụ thuộc

Kết quả thu được từ phần mềm SPSS như sau:

Bảng 5: Kiểm định độ phù hợp của mô hình (Kiểm định ANOVA)

Total 178.975 54 a Dependent Variable: NPL b Predictors: (Constant), LaLOAN, ROE, DEBT, LaNPL, LEVR, NIIR,

Dựa trên kết quả thu được, giá trị p-value của F rất nhỏ, dẫn đến việc bác bỏ giả thuyết H0 Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng mô hình hồi quy tuyến tính được xây dựng phù hợp với tổng thể.

Cuối cùng, ta thu được kết quả phân tích hồi quy đa biến như sau:

Bảng 5: Kết quả hồi quy đa biến

Biến Beta Std Error t p-value

Thống kê đa cộng tuyến

*** Có ý nghĩa thống kê ở mức 0.01

** Có ý nghĩa thống kê ở mức 0.05

* Có ý nghĩa thống kê ở mức 0.1

Dựa trên kết quả nghiên cứu, các biến DEBT, NIIR và LaNPL có tác động rõ rệt đến tỷ lệ nợ xấu NPL, trong khi biến ROE có ảnh hưởng ít hơn Ngoài ra, biến ∆GDP cũng cần được xem xét trong mối liên hệ này.

Trong nghiên cứu, biến LaLOAN có p-value lớn hơn 0.1, dẫn đến việc loại bỏ hai biến này khỏi mô hình Chỉ số VIF nhỏ hơn 2 cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra Phương trình hồi quy đa biến được trình bày như sau:

NPL = − + DEBT − ROE + NIIR + LEVR + LaNPL

Kết luận nghiên cứu

Nghiên cứu đã xây dựng và kiểm chứng mô hình các yếu tố gây ra nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời kỳ 2009-2011

Nghiên cứu chỉ ra rằng có năm yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm một yếu tố kinh tế vĩ mô là nợ công của Việt Nam và bốn yếu tố nội tại ngân hàng, cụ thể là tỷ số ROE, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập, tỷ số nợ và nợ xấu từ các thời kỳ trước Những yếu tố này tương ứng với năm giả thuyết nghiên cứu.

(H2) Nợ công (H3) Hiệu quả hoạt động (H5) Khả năng đa dạng hóa (H6) Sự ỷ lại

Hầu hết chiều tác động của các biến nghiên cứu độc lập lê biến phụ thuộc (nợ xấu) đều đúng theo mong đợi của nhóm nghiên cứu

Nghiên cứu chỉ ra rằng nợ xấu của các ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng lớn nhất từ nợ xấu năm trước, với mỗi đơn vị nợ xấu tăng thêm sẽ kéo theo nợ xấu năm nay tăng 0.537% Yếu tố thứ hai tác động mạnh mẽ là nợ công của Việt Nam, khi tỷ lệ nợ công trên GDP tăng 1% sẽ làm nợ xấu tăng 0.168% Thứ ba, chỉ số nợ của các ngân hàng thương mại, thể hiện sự phụ thuộc vào cứu trợ từ ngân hàng nhà nước, cũng có tác động đáng kể, với mỗi 1% tăng sẽ khiến nợ xấu tăng 0.137% Rõ ràng, nguyên nhân nợ xấu không chỉ xuất phát từ nội tại ngân hàng mà còn từ môi trường kinh tế chung Ngoài ba yếu tố chính, hiệu quả hoạt động ngân hàng và khả năng đa dạng hóa cũng ảnh hưởng đến nợ xấu; cụ thể, nếu ROE tăng 1% thì tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm 0.067%, trong khi tỷ lệ thu nhập ngoài lãi tăng 1% sẽ làm nợ xấu tăng 0.059%.

Mô hình nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ thu nhập ngoài lãi có ảnh hưởng tiêu cực đến nợ xấu của ngân hàng, trái ngược với dự đoán ban đầu Cụ thể, khi tỷ lệ này tăng lên, nợ xấu cũng gia tăng Nhóm nghiên cứu giải thích rằng khi thu nhập của ngân hàng chủ yếu đến từ các hoạt động ngoài cho vay, ngân hàng sẽ phải phân bổ nhiều nguồn lực cho những hoạt động này, dẫn đến chất lượng cho vay và giám sát cho vay giảm sút, từ đó làm tăng rủi ro nợ xấu.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP và nợ xấu năm trước không có ý nghĩa thống kê, nhưng tác động của chúng vẫn phù hợp với dự đoán của nhóm nghiên cứu Điều này cho thấy rằng, lập luận cho rằng "sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ làm giảm nợ xấu của các ngân hàng thương mại" và "chính sách tín dụng nới lỏng của các ngân hàng thương mại sẽ gia tăng nợ xấu" vẫn được hỗ trợ bởi dữ liệu thực tế.

KIẾN NGHỊ NGHIÊN CỨU VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện tình trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam, dựa vào các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của các NHTM.

Nợ xấu từ thời kỳ trước là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nợ xấu hiện tại, do đó, ngân hàng cần nhanh chóng giải quyết các khoản nợ xấu để ngăn chặn sự gia tăng nợ xấu trong tương lai Khi một khoản vay trở thành nợ xấu, ngân hàng phải tập trung nguồn lực để thu hồi nợ kịp thời, tránh kéo dài tình trạng này Phương pháp thu hồi nợ phụ thuộc vào chuyên môn của từng ngân hàng và nhân viên thu hồi nợ, nhưng điều quan trọng là phải xử lý ngay mà không chần chừ Hơn nữa, sự kém hiệu quả và chậm trễ của hệ thống tòa án và thi hành án tại Việt Nam, cùng với sự không rõ ràng trong các quy định pháp luật về khởi kiện và thu hồi nợ, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc giải quyết nợ xấu Việc khởi kiện không chỉ mang lại hiệu quả cho ngân hàng mà còn có tác dụng phòng ngừa, răn đe khách hàng chây ỳ Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc khởi kiện thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn, vì vậy cần cải thiện hoạt động của tòa án và ban hành các văn bản pháp lý rõ ràng để hỗ trợ ngân hàng trong việc thu hồi nợ xấu hiệu quả hơn.

Sự ỷ lại của các ngân hàng thương mại (NHTM) vào sự cứu trợ từ ngân hàng nhà nước là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nợ xấu Ngành ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế; khi một ngân hàng gặp khó khăn tài chính, nhà nước và ngân hàng trung ương thường áp dụng các biện pháp cứu trợ để ngăn chặn sự sụp đổ của ngân hàng, điều này có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ hệ thống tài chính.

Để giảm nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam, chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần giảm bớt sự bảo bọc không cần thiết và phân loại hiệu quả các ngân hàng nội địa Nếu NHTM quá phụ thuộc vào sự cứu trợ từ NHNN và chính phủ, điều này sẽ gia tăng rủi ro trong kinh doanh và tạo thêm cơ hội cho nợ xấu phát sinh Việc để các ngân hàng yếu kém phá sản hoặc bị mua lại là cần thiết, tương tự như quy luật kinh doanh toàn cầu, nơi việc phá sản ngân hàng được xem là bình thường Các ngân hàng cần hoạt động theo nguyên lý thị trường: làm tốt thì tồn tại, không làm tốt thì phải đào thải, từ đó sẽ nâng cao trách nhiệm và giảm thiểu nợ xấu.

Nợ công là yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến nợ xấu của các ngân hàng thương mại Để giảm nợ xấu, chính phủ cần giải quyết vấn đề nợ công quốc gia Nguyên tắc quan trọng nhất trong việc xử lý nợ công là đảm bảo tính công khai và minh bạch về tài chính công Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số kiến nghị cho chính phủ nhằm thực hiện nguyên tắc này, mặc dù kiến thức còn hạn chế.

Thứ nhất, xác định rõ vai trò và trách nhiệm tài khóa của các cơ quan của

Chính phủ Đây là yêu cầu thiết yếu để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong việc hoạch định và thực thi chính sách tài khóa

Khu vực chính phủ cần được phân định rõ ràng với các phần còn lại của khu vực công và nền kinh tế Chính sách cũng như vai trò quản lý của khu vực công phải được xác định một cách minh bạch và công khai.

Quản lý nợ cần được quy định rõ ràng trong pháp luật, với trách nhiệm chính thường thuộc về Bộ trưởng Tài chính Nhiệm vụ của Bộ trưởng bao gồm lựa chọn các công cụ vay nợ phù hợp, xây dựng chiến lược quản lý nợ, xác định giới hạn nợ dựa trên chiến lược nợ bền vững, thiết lập và kiểm soát các cơ quan hoặc tổ chức quản lý nợ, cũng như phát triển quy chế quản lý nợ hiệu quả.

Luật cần quy định rõ ràng về các khoản chính phủ bảo lãnh và xác định vai trò của Ngân hàng Trung ương để việc phát hành quỹ chứng khoán không bị nhầm lẫn với các biện pháp chính sách tiền tệ Tất cả các khoản vay phải được ghi nhận tại một tài khoản ngân hàng dưới sự giám sát chặt chẽ.

Bộ Tài chính cần công bố đầy đủ nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ để đảm bảo tính minh bạch tài khóa Điều này yêu cầu cơ quan lập pháp xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, bao gồm cả số liệu về bảo lãnh nợ của chính phủ, nhằm trình bày trước cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng.

Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự gia tăng nợ xấu Mỗi NHTM cần phát triển giải pháp và chính sách riêng, phù hợp với đặc thù của từng ngân hàng Để hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần cải thiện năng lực quản lý, ban hành chính sách, nâng cao chất lượng cán bộ và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Bên cạnh đó, NHNN cũng cần xây dựng quy chế quản lý phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và đánh giá an toàn cũng như hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Để nâng cao năng lực toàn hệ thống, NHNN cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá, quản trị rủi ro và kế toán Đồng thời, NHNN cũng nên tư vấn và làm đầu mối tiếp nhận hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế về công nghệ ngân hàng, nhằm tránh đầu tư kém hiệu quả.

Ngày đăng: 12/01/2022, 23:37

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình nghiên cứu như sau: - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008   2012 nghiên cứu khoa học
Hình nghi ên cứu như sau: (Trang 33)
Bảng 2: Đối tượng nghiên cứu – 20 ngân hàng lớn nhất Việt Nam về vốn - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008   2012 nghiên cứu khoa học
Bảng 2 Đối tượng nghiên cứu – 20 ngân hàng lớn nhất Việt Nam về vốn (Trang 34)
Bảng 3: Kết quả phân tích thống kê mô tả bằng SPSS - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008   2012 nghiên cứu khoa học
Bảng 3 Kết quả phân tích thống kê mô tả bằng SPSS (Trang 37)
Bảng 4: Đánh giá độ phù hợp của mô hình - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008   2012 nghiên cứu khoa học
Bảng 4 Đánh giá độ phù hợp của mô hình (Trang 38)
Bảng 5: Kết quả hồi quy đa biến - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008   2012 nghiên cứu khoa học
Bảng 5 Kết quả hồi quy đa biến (Trang 39)
Bảng tổng hợp các tỷ số nghiên cứu - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại việt nam giai đoạn 2008   2012 nghiên cứu khoa học
Bảng t ổng hợp các tỷ số nghiên cứu (Trang 49)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w