1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật việt nam – kiến nghị và giải pháp từ kinh nghiệm của liên minh châu âu

95 114 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Thừa Kế Có Yếu Tố Nước Ngoài Theo Pháp Luật Việt Nam – Kiến Nghị Và Giải Pháp Từ Kinh Nghiệm Của Liên Minh Châu Âu
Tác giả Trần Thành Đạt
Người hướng dẫn TS. Phan Hoài Nam
Trường học Trường Đại Học Luật Tp.Hcm
Chuyên ngành Luật Quốc Tế
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2021
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 860,65 KB

Cấu trúc

  • LỜI NÓI ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

    • 1.1. Khái quát về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

      • 1.1.1. Khái niệm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

      • 1.1.2. Đặc điểm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

      • 1.1.3. Nguyên tắc giải quyết quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

    • 1.2. Xung đột pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

      • 1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

      • 1.2.2. Nguyên nhân xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

      • 1.2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

        • 1.2.3.1. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

        • 1.2.3.2. Áp dụng pháp luật nước ngoài giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

    • 1.3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Liên minh Châu Âu

      • 1.3.1. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

        • 1.3.1.1. Nguyên tắc chung trong giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

        • 1.3.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài trong trường hợp có di chúc

      • 1.3.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Liên minh Châu Âu

        • 1.3.2.1. Nguyên tắc chung trong giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

        • 1.3.2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài trong trường hợp có di chúc

        • 1.3.2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài trong trường hợp người để lại di sản lựa chọn pháp luật

    • Kết luận Chương 1

  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI – KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP TỪ KINH NGHIỆM LIÊN MINH CHÂU ÂU

    • 2.1. Nguyên tắc chung trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

    • 2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài trong trường hợp có di chúc

    • 2.3. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài trong trường hợp người để lại di sản lựa chọn pháp luật

    • Kết luận Chương 2

  • PHẦN KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Khái quát về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

1.1.1 Khái niệm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

Pháp luật về thừa kế đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực dân sự, quy định việc chuyển nhượng tài sản từ người chết cho người thừa kế theo di chúc hoặc quy trình nhất định, cùng với quyền và nghĩa vụ của người thừa kế Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự xuất hiện của yếu tố nước ngoài trong quan hệ thừa kế đang gia tăng, yêu cầu cập nhật quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ này Do đó, việc hiểu rõ các khái niệm và đặc điểm liên quan là cần thiết để đảm bảo sự điều chỉnh phù hợp cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.

Hiện nay, pháp luật chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về thừa kế Tuy nhiên, do thừa kế được xem như một quan hệ dân sự, việc hiểu rõ khái niệm về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là cần thiết để xác định quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.

Khái niệm về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 826 BLDS 1995, trong đó quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ thừa kế có sự tham gia của người nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài Những quan hệ này có thể được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt tại nước ngoài, hoặc liên quan đến tài sản ở nước ngoài.

BLDS 2005 đã ghi nhận và sửa đổi Điều 758, quy định rằng quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài bao gồm ít nhất một bên tham gia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Chế định quyền thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam được nghiên cứu bởi Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy định và quy trình thừa kế theo pháp luật hiện hành Bài viết nêu rõ các nguyên tắc và hình thức thừa kế, đồng thời phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến quyền thừa kế của cá nhân Thông tin có thể tham khảo tại nguồn: https://phapluattoandan.com/tin-tuc/che-dinh-quyen-thua-ke-trong-phap-luat-dan-su-viet-nam/ (truy cập ngày 01/06/2021).

Trong luận án Tiến sĩ của Nguyễn Bá Chiến (2008), tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về việc hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột pháp luật tại Việt Nam Nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề pháp lý hiện tại mà còn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống pháp luật trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, các quan hệ thừa kế giữa công dân và tổ chức Việt Nam có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài, đặc biệt khi các yếu tố liên quan phát sinh tại nước ngoài Ngoài ra, luật cũng ghi nhận quyền lợi của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, điều này phản ánh sự gắn bó pháp lý của họ với hệ thống pháp luật nơi họ sinh sống, ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ.

Theo Điều 663 khoản 2 BLDS 2015, quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ thừa kế xảy ra trong các trường hợp có yếu tố nước ngoài.

Thứ nhất, có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài

Các bên tham gia vào quan hệ thừa kế đều là công dân và pháp nhân Việt Nam, tuy nhiên, việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ này lại diễn ra ở nước ngoài.

Thứ ba, các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ thừa kế đó ở nước ngoài

So với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 đã loại bỏ người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các cơ quan, tổ chức không có tư cách pháp nhân khỏi danh sách chủ thể Tuy nhiên, vẫn chưa có quy định cụ thể về chủ thể là quốc gia Trong một số trường hợp đặc biệt, như khi một công dân qua đời và để lại di sản ở quốc gia khác mà không có người thừa kế, quốc gia của công dân đó có thể trở thành chủ thể tham gia vào quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.

3 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, tr.463

Quan hệ thừa kế được coi là có yếu tố nước ngoài khi có một trong ba căn cứ sau: (i) chủ thể tham gia quan hệ thừa kế; (ii) sự kiện pháp lý liên quan đến thừa kế; (iii) đối tượng của quan hệ thừa kế.

1.1.2 Đặc điểm quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

Trước khi có sự tham gia của các yếu tố nước ngoài, quan hệ thừa kế mang đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự, tồn tại mà không cần quy phạm pháp luật cụ thể Trong quan hệ thừa kế, các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng, thể hiện qua khả năng tham gia theo điều kiện luật định, quyền hưởng lợi và nghĩa vụ được bảo vệ như nhau khi quyền và lợi ích bị xâm phạm.

Khi có sự xuất hiện của các yếu tố nước ngoài thì quan hệ thừa kế sẽ mang những đặc điểm sau:

Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài mang bản chất dân sự, theo cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự 2015 Quan hệ dân sự được hiểu rộng rãi là những quan hệ hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm Nhiều quan hệ xã hội, như lao động, thương mại, hôn nhân gia đình, cũng đáp ứng các tiêu chí này, trong đó thừa kế không phải là ngoại lệ.

Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài liên quan đến ít nhất hai hệ thống pháp luật khác nhau Thứ nhất, việc chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản từ người để lại thừa kế cho người còn sống tạo ra một quan hệ tài sản, do đó cần tuân theo pháp luật nơi có tài sản Thứ hai, quan hệ thừa kế cũng mang tính nhân thân, vì sự chuyển nhượng này thường dựa trên huyết thống, liên quan đến pháp luật nhân thân của người để lại thừa kế Cuối cùng, khi người để lại thừa kế qua đời, họ có thể vẫn còn các quan hệ dân sự chưa chấm dứt với bên thứ ba, điều này càng làm phức tạp thêm vấn đề thừa kế.

4 Đại học Luật TP.HCM (2018), Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự, NXB Hồng Đức, tr.42-45

Quan hệ dân sự trong hợp đồng và ngoài hợp đồng đều có ảnh hưởng đến quan hệ thừa kế, vì đây cũng được xem là một loại quan hệ tài sản liên quan đến bên thứ ba.

Xung đột pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

1.2.1 Khái niệm xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

Khi nghiên cứu về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài trong TPQT, một vấn đề quan trọng là xác định pháp luật (XĐPL) Nhiều người thường nhầm lẫn XĐPL với việc có nhiều quy phạm khác nhau trong cùng một hệ thống pháp luật quốc gia, nhưng thực chất đây là sự mâu thuẫn giữa các ngành và văn bản pháp luật trong quốc gia đó Trong bối cảnh TPQT, khái niệm XĐPL cần được hiểu chính xác hơn là sự tồn tại của nhiều hệ thống pháp luật từ các quốc gia khác nhau cùng điều chỉnh một vấn đề, dẫn đến các hậu quả pháp lý không giống nhau.

Xác định pháp luật về thừa kế liên quan đến việc áp dụng đồng thời hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau để giải quyết các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.

1.2.2 Nguyên nhân xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

Hiện tượng XĐPL tại TPQT đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải tìm ra giải pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề này Việc áp dụng đồng thời nhiều hệ thống pháp luật hoặc lựa chọn tùy tiện hệ thống pháp luật không phải là giải pháp khả thi Thay vào đó, cần có cơ sở chọn luật phù hợp để xử lý tình huống Do đó, nghiên cứu nguyên nhân phát sinh hiện tượng XĐPL trong lĩnh vực thừa kế có yếu tố nước ngoài là rất quan trọng.

Nguyên nhân đầu tiên liên quan đến việc áp dụng nhiều hệ thống pháp luật khác nhau khi xảy ra quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.

16 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, sđd, tr.154

17 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, sđd, tr.157

Quan hệ thừa kế thường liên quan đến ít nhất hai hệ thống pháp luật khác nhau, và hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vấn đề liên quan Pháp luật áp dụng có thể là từ quốc gia nơi người để lại di sản có quốc tịch hoặc cư trú, quốc gia nơi có di sản, hoặc quốc gia nơi xảy ra các sự kiện pháp lý dẫn đến quan hệ thừa kế.

Sự khác biệt trong pháp luật giữa các quốc gia về quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là nguyên nhân quan trọng thứ hai Những khác biệt này xuất phát từ nhiều yếu tố như quan điểm chính trị, hệ tư tưởng, phong tục tập quán, tôn giáo, và điều kiện kinh tế xã hội Chẳng hạn, một số quốc gia quy định phần thừa kế bắt buộc cho người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, nhằm bảo vệ quyền hưởng di sản, trong khi những quốc gia khác tôn trọng ý chí của người để lại di sản mà không có quy định tương tự Do đó, cùng một quan hệ thừa kế nhưng hệ quả pháp lý có thể khác nhau, dẫn đến sự không đồng nhất trong việc giải quyết các vấn đề thừa kế quốc tế.

Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các quốc gia đang nỗ lực tăng cường hợp tác quốc tế, nhưng vẫn tồn tại nhiều khác biệt trong TPQT Việc xác định nguyên nhân XĐPL về thừa kế có yếu tố nước ngoài là cần thiết để tìm ra các phương pháp giải quyết phù hợp Điều này sẽ giúp xây dựng khung pháp lý hoàn thiện hơn, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ thừa kế quốc tế.

18 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, sđd, tr.160

19 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, sđd, tr.161

Nguyễn Bá Chiến (2008) trong luận án Tiến sĩ của mình tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống quy phạm xung đột pháp luật ở Việt Nam Tác phẩm này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về các vấn đề pháp lý hiện hành và đề xuất giải pháp cải tiến hệ thống quy phạm pháp luật, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết xung đột pháp luật.

1.2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

1.2.3.1 Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

Việc quy định các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế là quyền tự do của mỗi quốc gia, nhưng cần chú ý đến quyền và lợi ích của các bên liên quan cũng như lợi ích của quốc gia và cộng đồng quốc tế Hai phương pháp phổ biến trong giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế sẽ được đề cập, mỗi phương pháp có vai trò riêng và không có phương pháp nào là tối ưu nhất hay có thể thay thế hoàn toàn các phương pháp khác.

Để xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất trong lĩnh vực thừa kế có yếu tố nước ngoài, cần chú trọng đến việc quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, nhằm đơn giản hóa thủ tục và giảm thiểu sự chồng chéo trong quy định pháp luật Phương pháp này giúp giải quyết vấn đề một cách hiệu quả và nhanh chóng, bởi các cơ quan có thẩm quyền không cần phải lựa chọn luật áp dụng như trong trường hợp quy phạm xung đột Tuy nhiên, việc thống nhất quy phạm thực chất giữa các quốc gia gặp khó khăn do ảnh hưởng của yếu tố truyền thống và lịch sử trong quan hệ thừa kế, dẫn đến sự không đồng nhất trong quy định phù hợp với hoàn cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa của từng quốc gia Ví dụ, một số quốc gia yêu cầu người thừa kế có quan hệ huyết thống với người để lại di sản phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu đối với di sản bất động sản trước khi chuyển giao cho những người không có quan hệ huyết thống.

20 Lê Thị Nam Giang (2010), Tư pháp quốc tế, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, sđd, tr.118

21 Lê Thị Nam Giang (2010), Tư pháp quốc tế, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, sđd, tr.118

22 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, sđd, tr.163

23 Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Công an Nhân dân, tr.278

Quy định hiện hành tỏ ra không phù hợp khi có người thừa kế không có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, điều này khác biệt so với một số quốc gia khác Hơn nữa, quá trình đàm phán để thống nhất các quy phạm cần thời gian dài, phức tạp và tốn kém.

Thứ hai, việc xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột là rất quan trọng trong lĩnh vực pháp luật quốc tế và quốc gia Các quy phạm này có thể tồn tại dưới dạng điều ước quốc tế hoặc trong pháp luật quốc gia, nhưng không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thừa kế Thay vào đó, chúng cung cấp nguyên tắc chung để các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn pháp luật phù hợp Mặc dù phương pháp này có những hạn chế, như việc lựa chọn hệ thống pháp luật có thể phức tạp, nhưng việc các quốc gia hợp tác xây dựng quy phạm xung đột thống nhất lại dễ dàng hơn Các quy phạm này mang tính hướng dẫn và không áp đặt, giúp các bên lựa chọn pháp luật phù hợp mà không chịu ràng buộc từ bất kỳ quốc gia nào Hiện nay, phương pháp này được áp dụng phổ biến qua các quy phạm trong Hiệp định tương trợ tư pháp, và các quốc gia cũng chủ động xây dựng quy phạm xung đột trong trường hợp không có điều ước quốc tế Một số hệ thuộc luật thường được sử dụng bao gồm hệ thuộc luật nhân thân, hệ thuộc luật nơi có tài sản, và hệ thuộc luật lựa chọn.

Hệ thuộc luật nhân thân (lex personalis) xác định các quy định pháp lý liên quan đến nhân thân của cá nhân trong các mối quan hệ pháp lý Đây là một trong những hệ thuộc luật được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn.

Điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm thừa kế, thường dựa vào luật nhân thân Trong hầu hết các hệ thống pháp luật, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ nhân thân và tài sản trong gia đình được quy định bởi luật nhân thân Trong trường hợp thừa kế có yếu tố nước ngoài, luật nhân thân sẽ điều chỉnh các vấn đề như thừa kế di sản động sản, năng lực lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc, cùng với hình thức di chúc Luật nhân thân tồn tại dưới hai hình thức khác nhau.

Hệ thuộc luật quốc tịch (lex patriae/lex nationalis) là pháp luật của quốc gia mà cá nhân mang quốc tịch Ưu điểm nổi bật của hệ thống này là tính ổn định cao, do việc thay đổi quốc tịch không diễn ra thường xuyên Tuy nhiên, nhược điểm của nó là có thể cản trở sự hòa nhập của người nhập cư sống lâu dài tại quốc gia khác, gây khó khăn trong việc thích ứng với cộng đồng nơi họ đang sinh sống.

Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Liên minh Châu Âu

1.3.1 Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

1.3.1.1 Nguyên tắc chung trong giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài

Căn cứ theo pháp luật hiện hành, cụ thể dựa trên khoản 1 Điều 680 BLDS

Năm 2015, quy tắc áp dụng chung về thừa kế được quy định: "Thừa kế sẽ được xác định theo pháp luật của quốc gia mà người để lại di sản có quốc tịch ngay trước khi qua đời".

Theo Điều 680 Bộ luật Dân sự 2015, quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định dựa trên pháp luật của quốc gia nơi bất động sản tọa lạc Điều này có nghĩa là việc thực hiện quyền thừa kế sẽ tuân theo các quy định pháp lý của nước sở hữu tài sản.

Việt Nam áp dụng luật quốc tịch của người để lại di sản trước khi qua đời để giải quyết các vấn đề trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, bao gồm hàng thừa kế, thời điểm mở thừa kế, tỷ lệ phân chia di sản và quản lý di sản Đối với bất động sản, do tính chất đặc thù, việc xác định quyền sở hữu và các điều kiện liên quan đến người thừa kế sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp của nơi có bất động sản đó.

41 Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Hồng Đức, sđd, tr.246-247

Ông A, với quốc tịch Pháp duy nhất, đã để lại di sản gồm động sản tại Pháp và một căn nhà ở Việt Nam mà không có di chúc Theo Điều 680 BLDS 2015, pháp luật Pháp sẽ được áp dụng để giải quyết các vấn đề thừa kế liên quan đến di sản Tuy nhiên, vì căn nhà ở Việt Nam là bất động sản, quyền sở hữu và giá trị thừa kế của người thừa kế sẽ được điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam.

Việt Nam áp dụng hệ thống luật quốc tịch làm nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế, dẫn đến khả năng phát sinh hai tình huống: người để lại di sản không có quốc tịch hoặc có hai quốc tịch trở lên Sự tham gia của những chủ thể này làm cho việc xác định quốc gia liên quan trở nên phức tạp, đặc biệt khi người thừa kế không có quốc tịch hoặc có nhiều quốc gia liên quan Mỗi trường hợp sẽ yêu cầu những phương án giải quyết khác nhau, trong đó trường hợp người để lại di sản không có quốc tịch sẽ được xử lý theo quy định cụ thể.

Theo Điều 672 BLDS 2015, pháp luật của nước nơi người thừa kế cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài sẽ được áp dụng Nếu người để lại di sản có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú, pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất sẽ được áp dụng So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã có sự điều chỉnh, chuyển từ việc ưu tiên áp dụng pháp luật Việt Nam sang một cách tiếp cận khách quan hơn, đảm bảo sự tôn trọng và công bằng cho các bên liên quan trong quan hệ thừa kế quốc tế, phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật.

42 Lê Thị Bích Thủy (2019), Pháp luật áp dụng đối với cá nhân trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo

Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Luật học số 1/2019, tr.57 Nguồn: https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/275200/CVv209S012019057.pdf (truy cập ngày 23/06/2021)

Theo Điều 40 BLDS 2015, khái niệm “cư trú” được hiểu là nơi mà cá nhân thường xuyên sinh sống Nếu không xác định được nơi cư trú thường xuyên, thì nơi cư trú của cá nhân sẽ được coi là nơi mà họ đang sinh sống hiện tại.

44 Lê Thị Bích Thủy (2019), Pháp luật áp dụng đối với cá nhân trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo

Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Luật học số 1/2019, tlđd, tr.59

Khi người để lại di sản có nhiều quốc tịch, việc xác định pháp luật áp dụng trở nên phức tạp và được các quốc gia quan tâm Theo khoản 2 Điều 672 BLDS 2015, pháp luật của nước nơi người để lại di sản có quốc tịch và cư trú tại thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế sẽ được áp dụng Điều này cho thấy, trong trường hợp có từ hai quốc tịch trở lên, pháp luật yêu cầu bổ sung tiêu chí để cơ quan có thẩm quyền lựa chọn luật áp dụng, cụ thể là bổ sung luật nơi cư trú bên cạnh luật quốc tịch.

Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật nơi cư trú gặp nhiều khó khăn, như trường hợp người có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú, hoặc nơi cư trú và nơi có quốc tịch khác nhau tại thời điểm phát sinh quan hệ Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra giải pháp bằng cách xác định pháp luật của nước mà người để lại di sản có quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất.

Để nâng cao khả năng áp dụng pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc di sản, Điều 672 BLDS 2015 quy định rằng nếu người để lại di sản có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Việt Nam, thì pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng.

Trong trường hợp một cá nhân có nhiều quốc tịch, bao gồm cả quốc tịch Việt Nam, pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật Việt Nam.

Nguyên tắc chung trong việc giải quyết xác định pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài hiện vẫn chưa có quy định cụ thể nào liên quan đến các chủ thể thừa kế, bao gồm cả trẻ em.

1.3.1.2 Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài trong trường hợp có di chúc

Di chúc là một trong những nội dung quan trọng và đặc trưng trong thừa kế, thể hiện ý chí của cá nhân trong việc chuyển giao tài sản cho người khác sau khi qua đời Khi thừa kế có yếu tố nước ngoài, việc lập di chúc trở nên cần thiết để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho những người thừa kế.

31 phát sinh thì cũng đặt ra một số vấn đề pháp lý nhất định xoay quanh di chúc của người để lại di sản

Di chúc được coi là hợp pháp tại Việt Nam khi đáp ứng các điều kiện theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015, bao gồm: người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép; nội dung di chúc không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội; hình thức di chúc phải tuân thủ quy định của pháp luật Đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, năng lực chủ thể và hình thức di chúc là những yếu tố quan trọng được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế.

Năng lực lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc được quy định tại Khoản 1 Điều 681 Bộ luật Dân sự 2015, nêu rõ rằng năng lực này phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm thực hiện các hành động đó Điều này có nghĩa là luật quốc tịch của người lập di chúc sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp của các hành động liên quan đến di chúc Cần lưu ý rằng thời điểm xác định luật quốc tịch áp dụng là thời điểm lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc, không phải là thời điểm người để lại di sản qua đời.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT

Ngày đăng: 05/05/2022, 11:21

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w