Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên minh châu Âu về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng; định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng trong tương lai.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại Việt Nam, việc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng đã được nghiên cứu sâu sắc và không còn là vấn đề mới mẻ Các công trình nghiên cứu hiện có có thể được phân loại thành hai nhóm chính, phản ánh tình hình nghiên cứu đa dạng về đề tài này.
Nhóm 1 tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến Tư pháp quốc tế, đặc biệt là các vấn đề chung như quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài Một số công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm "Tư pháp Quốc tế Việt Nam" của Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ (2006), xuất bản bởi NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội Công trình nghiên cứu về các vấn đề mang tính lý luận
Bài viết này tập trung vào ba khía cạnh chính của Tư pháp quốc tế, bao gồm khái niệm, phương pháp giải quyết xung đột pháp luật, lẩn tránh pháp luật và bảo lưu trật tự công cộng Ngoài ra, nghiên cứu cũng phân tích quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như hôn nhân gia đình, hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cũng như quan hệ tài sản Tác giả chỉ ra những hạn chế của pháp luật Việt Nam khi so sánh với pháp luật nước ngoài và thực tiễn áp dụng, đồng thời đề xuất các định hướng để hoàn thiện những bất cập này.
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp đã phân tích thực trạng quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của quyền này Bài viết so sánh quyền lựa chọn pháp luật giữa Việt Nam và một số quốc gia khác Tác giả đề xuất rằng pháp luật Việt Nam nên mở rộng quyền lựa chọn pháp luật trong các lĩnh vực dân sự khác, bao gồm quan hệ thừa kế, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, sở hữu tài sản, và quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp Quốc tế, NXB Đại học quốc gia
Công trình nghiên cứu tại TP Hồ Chí Minh được chia thành hai nội dung chính: Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lý luận chung của Tư pháp quốc tế, bao gồm khái niệm, đối tượng điều chỉnh, nguồn luật và xung đột pháp luật Thứ hai, phân tích và đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, như hợp đồng, hôn nhân gia đình, thừa kế, sở hữu trí tuệ, lao động và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trần Minh Ngọc (2015) trong bài viết “Góp phần hoàn thiện Phần 5 Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” đã phân tích những điểm mới trong Dự thảo, góp phần nâng cao hiểu biết về quy định pháp luật liên quan đến quan hệ dân sự quốc tế Nghiên cứu này không chỉ làm rõ các thay đổi quan trọng mà còn đề xuất những cải tiến cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong việc áp dụng pháp luật đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Bộ luật Dân sự 2015 về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước
Khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật liên quan được quy định trong Dự thảo Bộ luật Dân sự 2015 Bài viết cũng chỉ ra những bất cập trong quy định mới của Dự thảo và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện những vấn đề này.
Vũ Thị Hương và Lê Hồng Sơn (2015) đã nghiên cứu về hình thức và thời điểm thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng của các bên trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế tại Việt Nam Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy định pháp lý và thực tiễn liên quan đến việc lựa chọn pháp luật trong các tranh chấp quốc tế, từ đó góp phần nâng cao hiểu biết về quy trình và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nghiên cứu Lập pháp (19) phân tích và đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc luật do các bên lựa chọn, tập trung vào hình thức và thời điểm chọn luật Tác giả chỉ ra những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam khi so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu, từ đó đề xuất định hướng hoàn thiện nhằm khắc phục những vấn đề này.
Nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực xung đột pháp luật đã được thực hiện, tuy nhiên, hầu hết đều tập trung vào các vấn đề lý luận chung Đặc biệt, việc phân tích sâu về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam vẫn còn hạn chế.
So với pháp luật Liên minh châu Âu và những điểm mới trong Bộ luật Dân sự 2015, các công trình nghiên cứu năm 2005 vẫn chưa giải quyết triệt để vấn đề này.
Nhóm 2 tập trung vào các nghiên cứu liên quan đến giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có thể được nhắc đến bao gồm những phân tích sâu sắc về cơ chế giải quyết tranh chấp, các phương pháp hòa giải, và vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng Những nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn toàn diện về vấn đề mà còn đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao tính khả thi và công bằng trong việc giải quyết xung đột hợp đồng.
Nguyễn Lê Hoài (2015) trong luận văn thạc sĩ "Hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam về hợp đồng – Kinh nghiệm từ pháp luật của một số nước" đã phân tích và đánh giá thực trạng quy định của Bộ luật Dân sự 2005 cùng các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan đến giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng Nghiên cứu này sử dụng phương pháp so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới nhằm đưa ra định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng có yếu tố nước ngoài Công trình nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc cải thiện khung pháp lý cho hợp đồng quốc tế tại Việt Nam.
Bài viết này phân tích và đánh giá những điểm mới của Dự thảo Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005, đặc biệt trong việc giải quyết xung đột pháp luật liên quan đến hợp đồng.
Bành Quốc Tuấn (2012), “Hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng yếu tố nước ngoài”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (121,
122) Công trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự
Bài viết phân tích quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài, bao gồm hình thức và thời điểm chọn luật, quyền lựa chọn luật điều chỉnh một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, cũng như quyền chọn Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế Tác giả đã so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu để chỉ ra những bất cập trong quy định của Việt Nam và đề xuất định hướng hoàn thiện Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào đánh giá quy định về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng từ góc độ quyền thỏa thuận chọn luật.
Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, việc đưa ra nhận định và kết quả khoa học chính xác yêu cầu kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu và nghiên cứu lịch sử Các phương pháp này được áp dụng linh hoạt và phù hợp với từng vấn đề cụ thể mà đề tài đặt ra, giúp giải quyết hiệu quả các vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết được áp dụng xuyên suốt trong nghiên cứu này để phân tích các quy định pháp luật của Việt Nam và Liên minh châu Âu liên quan đến xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng Qua các phân tích, tác giả tổng hợp lại và đưa ra kết luận chung cho từng vấn đề đã được nêu ra.
Phương pháp so sánh - đối chiếu là phương pháp chính được áp dụng trong chương 3 của đề tài, nhằm mục đích so sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên minh châu Âu về nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng Đồng thời, phương pháp này cũng giúp đối chiếu những thay đổi của Bộ luật Dân sự.
2015 với những bất cập của Bộ luật Dân sự 2005 nhằm tiếp tục đề xuất định hướng
9 hoàn thiện Bộ luật Dân sự 2015 với những bất cập còn tồn tại mà Bộ luật Dân sự
2015 chưa giải quyết hoặc có giải quyết nhưng chưa triệt để
Phương pháp thực tiễn được áp dụng chủ yếu trong chương 2 và chương 3 để phân tích và tổng hợp kinh nghiệm xét xử của Tòa án và Trọng tài thông qua các án lệ, nhằm làm rõ các vấn đề lý luận Qua việc phân tích và tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn, phương pháp này giúp chỉ ra những bất cập và lỗi thời trong các quy định pháp luật khi được áp dụng, từ đó đưa ra những đề xuất hoàn thiện hợp lý, hiệu quả và có tính ứng dụng cao.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố cơ sở lý luận cho các quy định pháp luật về giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng Nó cũng hỗ trợ giảng dạy và nghiên cứu Tư pháp quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Bộ luật Dân sự 2015 sắp có hiệu lực với nhiều thay đổi so với Bộ luật Dân sự 2005 Nghiên cứu đã chỉ ra những bất cập trong quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật, thông qua việc so sánh với pháp luật Liên minh châu Âu Tác giả đã đánh giá quá trình hoàn thiện của Bộ luật Dân sự 2015 và đề xuất những định hướng cải tiến cho Bộ luật này trong tương lai, nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong Bộ luật Dân sự 2005.
Bộ luật Dân sự 2015 còn thiếu sót trong việc giải quyết một số vấn đề, ảnh hưởng đến công tác lập pháp và thực thi pháp luật Việc hoàn thiện và phát triển Bộ luật Dân sự Việt Nam là cần thiết, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Kết cấu đề tài
Chương 1: Lý luận chung về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Liên minh châu Âu
Chương 3: Thực trạng giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC HỢP ĐỒNG
Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài
Hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự Khi hợp đồng có yếu tố nước ngoài, nó trở thành đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế với những đặc thù riêng Hiện nay, chưa có quy định cụ thể nào về khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, cũng như chưa có sự thống nhất trong cách hiểu khái niệm này Tuy nhiên, hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài có thể được định nghĩa thông qua quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, theo Điều 758 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11, trong đó quy định rằng quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ có ít nhất một bên là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, hoặc các quan hệ giữa công dân, tổ chức Việt Nam nhưng dựa trên pháp luật nước ngoài.
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 của Quốc hội ngày 14 tháng 6 năm 2005 (BLDS
Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được ban hành vào ngày 24/11/2015, đã có nhiều thay đổi quan trọng trong việc quy định các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Những sửa đổi này nhằm nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ dân sự quốc tế.
Theo Bộ luật Dân sự 2015, ít nhất một bên tham gia vào quan hệ dân sự phải là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài Một điểm mới so với Bộ luật Dân sự 2005 là việc loại bỏ người Việt Nam định cư ở nước ngoài khỏi danh sách chủ thể xác định yếu tố nước ngoài Sự thay đổi này được coi là hợp lý, giúp đơn giản hóa việc xác định tư cách tố tụng của các chủ thể này.
2 Trường ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần riêng), NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr.71
Trong quá trình áp dụng quy định về "người Việt Nam định cư ở nước ngoài," có nhiều bất cập do khái niệm này chưa được định nghĩa cụ thể trong các văn bản pháp luật Sự không nhất quán trong nội hàm của thuật ngữ này thể hiện rõ qua các quy định khác nhau của Luật Quốc tịch Việt Nam số 24/2008/QH12 và Nghị định số 138/2006/NĐ-CP Điều này gây khó khăn trong việc thực hiện các quy định liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã làm rõ tư cách pháp lý của các chủ thể trong các quan hệ này, phù hợp với chính sách của Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài Chính sách khẳng định rằng người Việt Nam ở nước ngoài là một phần không thể tách rời của cộng đồng dân tộc, và Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để họ tham gia vào các quan hệ pháp luật trong nước, đồng thời tôn trọng pháp luật của quốc gia sở tại Nếu người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hợp đồng với tư cách công dân Việt Nam, hợp đồng này không được coi là có yếu tố nước ngoài Ngược lại, nếu họ tham gia với tư cách công dân của quốc gia cư trú, hợp đồng sẽ được xem là có yếu tố nước ngoài Một điểm mới trong BLDS 2015 là việc thay thế khái niệm "cơ quan, tổ chức nước ngoài" bằng "pháp nhân nước ngoài", tạo sự nhất quán trong thuật ngữ và đồng nhất với quy định quốc tế về chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng, từ đó giúp xác định luật áp dụng một cách rõ ràng hơn.
3 Xem khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008
4 Xem khoản 3 Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP
Bài viết của Vũ Thị Phương Lan (2014) tập trung vào việc hoàn thiện quy định về phạm vi quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo Điều 758 của Bộ luật dân sự năm 2005 Tác giả phân tích những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các phương hướng cải tiến nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả của các quy định này trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Luật học, số 4, trang 39.
6 Xem Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày
Hợp đồng có yếu tố nước ngoài trở nên dễ dàng và chính xác hơn khi áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch của pháp nhân, giúp làm rõ khái niệm về cơ quan và tổ chức trong bối cảnh pháp lý.
BLDS 2005 đã hạn chế đối tượng của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài chỉ là tài sản liên quan đến quan hệ ở nước ngoài, dẫn đến việc loại bỏ những quan hệ dân sự không phải là tài sản Để khắc phục hạn chế này, BLDS 2015 đã thay đổi cụm từ “tài sản liên quan đến quan hệ” thành “đối tượng của quan hệ,” mở rộng phạm vi áp dụng cho các loại hợp đồng khác như dịch vụ và bảo hiểm.
Năm 2005, đối tượng của quan hệ dân sự được mở rộng hơn so với tài sản, phản ánh sự đa dạng trong các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam Điều này cho thấy rằng đối tượng của quan hệ dân sự không chỉ giới hạn ở tài sản, mà còn bao gồm công việc, con người và trách nhiệm dân sự.
Theo quy định pháp luật, để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, cần có sự kiện pháp lý xảy ra ở nước ngoài Điều này có nghĩa là, nếu các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để điều chỉnh quan hệ lại dựa vào pháp luật nước ngoài, sẽ có sự thiếu logic Để khắc phục hạn chế này, Bộ luật Dân sự 2015 đã điều chỉnh lại quy định, nhấn mạnh rằng căn cứ xác lập, thay đổi, thực hiện và chấm dứt quan hệ phải xảy ra ở nước ngoài, thay vì chỉ dựa vào pháp luật nước ngoài Cụm từ “xảy ra ở nước ngoài” được bổ sung nhằm bao hàm cả hai khía cạnh, tạo ra sự rõ ràng và hợp lý hơn trong việc áp dụng pháp luật.
14 được quy định trong BLDS 2005 Do đó, theo quan điểm tác giả đây là một sự thay đổi hợp lý và rất hay của BLDS 2015
Trong các văn bản pháp luật Việt Nam, hợp đồng có yếu tố nước ngoài được xác định dựa vào chủ thể tham gia Cụ thể, theo Bộ Luật Hàng hải số 95/2015/QH13, hợp đồng có yếu tố nước ngoài khi ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài Tương tự, Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 cũng sử dụng tiêu chí này Ngược lại, Luật Thương mại số 36/2005/QH11 xác định hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên việc vận chuyển hàng hóa qua biên giới, không phụ thuộc vào nơi cư trú hay quốc tịch của các bên Do đó, phạm vi xác định yếu tố nước ngoài theo Luật Thương mại 2005 hẹp hơn so với Bộ Luật Dân sự 2005.
Vào ngày 18/12/2015, Việt Nam chính thức gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) Theo Điều 1 của Công ước, hợp đồng mua bán hàng hóa được áp dụng khi các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau Điều này có nghĩa là yếu tố quốc tế của hợp đồng được xác định dựa trên trụ sở thương mại của các bên, không phụ thuộc vào địa điểm ký kết hợp đồng hay việc hàng hóa có được chuyển qua biên giới hay không Do đó, với tư cách là thành viên của Công ước, Việt Nam phải tuân thủ các quy định này trong các giao dịch thương mại quốc tế.
Đỗ Minh Ánh (2011) đã nêu ra vấn đề cần thiết phải sửa đổi khái niệm mua bán hàng hóa quốc tế trong Luật Thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Bài viết được đăng trên Tạp chí Luật học, số 9, trang 4.
Luật Thương mại năm 2005 cần điều chỉnh khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế để phù hợp với quy định của Công ước Việc này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Công ước trong thực tế, đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả trong giao dịch thương mại quốc tế.
Hợp đồng có yếu tố nước ngoài được định nghĩa là hợp đồng trong đó ít nhất một bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài Ngoài ra, hợp đồng cũng có thể là giữa các bên là cá nhân, pháp nhân Việt Nam nhưng các căn cứ để xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng diễn ra ở nước ngoài, hoặc đối tượng của hợp đồng nằm ở nước ngoài.
Khái quát về xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
1.2.1 Khái niệm xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cần đáp ứng ít nhất một trong ba đặc điểm: có bên tham gia là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài, đối tượng quan hệ ở nước ngoài, hoặc căn cứ xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài Điều này dẫn đến việc các quan hệ này không chỉ bị chi phối bởi pháp luật của một quốc gia mà còn bởi ít nhất hai hệ thống pháp luật khác nhau Khi một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh, hầu hết các quốc gia liên quan đều có thẩm quyền xét xử, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt Mỗi quốc gia đều mong muốn áp dụng pháp luật của mình để bảo vệ quyền lợi công dân Tuy nhiên, hệ thống pháp luật giữa các quốc gia không hoàn toàn giống nhau, dẫn đến việc cùng một vấn đề có thể được điều chỉnh khác nhau Do đó, cơ quan xét xử cần lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp nhất để giải quyết quan hệ dân sự.
Hiện tượng hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được gọi là xung đột pháp luật Điều này xảy ra khi có sự liên quan đến nhiều quốc gia, dẫn đến việc cần xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp Việc này không chỉ phức tạp mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong quan hệ dân sự.
Xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài xảy ra khi hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể áp dụng cho một hợp đồng liên quan đến yếu tố nước ngoài Hiện tượng này thể hiện sự phức tạp trong việc xác định quy định pháp lý nào sẽ được áp dụng, tạo ra thách thức cho các bên liên quan trong việc thực thi hợp đồng.
Trong quan hệ hợp đồng thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế thường sẽ xảy ra xung đột pháp luật ở một số vấn đề sau:
Xung đột pháp luật về tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng trong Bộ luật Dân sự 2005, yêu cầu các chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân sự Nếu không, giao dịch sẽ bị coi là vô hiệu Hai hệ thống pháp luật có thể áp dụng là pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia nơi các chủ thể có quốc tịch Ví dụ, ông A (20 tuổi) là người Việt Nam ký hợp đồng với ông B (17 tuổi) từ North Carolina, Mỹ Theo pháp luật Việt Nam, ông B chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, dẫn đến hợp đồng vô hiệu Ngược lại, theo pháp luật North Carolina, ông B đã đủ tuổi thành niên và có năng lực hành vi dân sự Điều này cho thấy cùng một vấn đề pháp lý nhưng mỗi quốc gia có quy định khác nhau, dẫn đến xung đột pháp luật.
Xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng là một vấn đề quan trọng Bộ luật dân sự của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, công nhận các hình thức hợp đồng tương tự Ví dụ, Bộ luật dân sự Pháp cho phép hợp đồng dân sự được thể hiện qua lời nói hoặc hành vi pháp lý.
8 Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp Quốc tế, NXB ĐHQG TP.Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh, tr.108
9 Xem thêm Điều 122 và Điều 127 BLDS 2005
10 Xem Điều 18 và Điều 19 BLDS 2005
Mỗi quốc gia có quy định khác nhau về hình thức hợp đồng, dẫn đến xung đột pháp luật Ví dụ, ông A (quốc tịch Việt Nam) ký hợp đồng mua bán xe hơi với ông B (quốc tịch Pháp) bằng văn bản không có công chứng Theo pháp luật Việt Nam, hình thức hợp đồng này hợp lệ, nhưng theo pháp luật Pháp, nó không tuân thủ yêu cầu về công chứng, chứng thực.
Xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng là một vấn đề quan trọng khi so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật hợp đồng của các quốc gia khác Mặc dù cách thức quy định về nội dung hợp đồng giữa các nước có nhiều điểm tương đồng, nhưng sự khác biệt trong các điều khoản cụ thể có thể dẫn đến xung đột pháp luật Ví dụ, trong khi pháp luật Hoa Kỳ cho phép giao dịch vũ khí, thì theo pháp luật Việt Nam, việc này lại bị cấm Do đó, nếu hợp đồng được điều chỉnh theo pháp luật Hoa Kỳ, nó sẽ hợp pháp, nhưng nếu áp dụng pháp luật Việt Nam, hợp đồng đó sẽ trở nên vô hiệu.
Trong lĩnh vực hợp đồng, ngoài ba vấn đề xung đột pháp luật thường gặp, còn tồn tại một số vấn đề khác như giao kết hợp đồng vắng mặt, chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro Tuy nhiên, khóa luận này sẽ chỉ tập trung nghiên cứu xung đột pháp luật liên quan đến nội dung hợp đồng.
1.2.2 Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
Xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng xuất phát từ hai nguyên nhân chính Thứ nhất, sự khác biệt trong quy định pháp lý giữa các quốc gia hoặc khu vực có thể dẫn đến những mâu thuẫn trong việc thực hiện hợp đồng Thứ hai, sự không thống nhất trong các điều khoản hợp đồng và cách hiểu của các bên liên quan cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra xung đột pháp luật.
11 Xem Điều 1582, Điều 1714 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804
12 Xem Điều 1582 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804
Trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế, hợp đồng có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, do bản chất của quan hệ hợp đồng thường liên quan đến yếu tố nước ngoài Điều này phân biệt với các quan hệ hành chính và hình sự, vì quan hệ dân sự mang tính chất đa dạng và phức tạp hơn.
Trong lĩnh vực pháp luật tư, sự tự do thỏa thuận giữa các bên được coi trọng, cho phép áp dụng nhiều quy phạm pháp luật khác nhau Khi có yếu tố nước ngoài, quan hệ dân sự sẽ liên quan đến các quy phạm pháp luật quốc tế và nội địa, tạo ra sự phức tạp trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không thuộc về một quốc gia riêng lẻ mà bị điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật “tư” của nhiều quốc gia khác nhau, dẫn đến xung đột pháp luật Điều này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng và chủ quyền giữa các quốc gia Khi hợp đồng liên quan đến nhiều quốc gia, chẳng hạn như hợp đồng được ký kết tại Anh, thực hiện tại Việt Nam nhưng đối tượng là bất động sản tại Pháp, thì các quốc gia này đều có thẩm quyền giải quyết, trừ khi pháp luật của một quốc gia quy định khác Do đó, quan hệ hợp đồng có thể chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các quốc gia liên quan, dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng chủ quyền.
Có sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật khi giải quyết vấn đề hợp đồng, bởi mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Những yếu tố này tạo nên tính đặc trưng của pháp luật từng quốc gia Mặc dù pháp luật được xem là kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhưng nó vẫn bị chi phối bởi các quy phạm đạo đức, tôn giáo và phong tục tập quán, dẫn đến sự đa dạng trong cách áp dụng pháp luật.
13 Trường ĐH Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr.105
Mặc dù 19 quốc gia có chế độ kinh tế, chính trị và xã hội tương đồng, nhưng hệ thống pháp luật lại khác biệt Sự khác nhau này dẫn đến việc cùng một vấn đề pháp lý nhưng mỗi quốc gia lại có quy định riêng, tạo ra hiện tượng xung đột pháp luật.
1.2.3 Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
Trong lĩnh vực khoa học tư pháp quốc tế, hiện có hai phương pháp chính để giải quyết xung đột pháp luật: phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm thực chất, cùng với phương pháp xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột.