CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Một số khái niệm
Haviland (2003) định nghĩa hộ gia đình là một đơn vị xã hội bao gồm một hoặc một nhóm người sống chung Đối với các hộ gia đình có từ hai người trở lên, các thành viên có thể có hoặc không có quỹ thu chi chung hoặc thu nhập chung Hộ gia đình không đồng nghĩa với khái niệm gia đình, vì những người trong hộ gia đình có thể không có mối quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hoặc hôn nhân.
Nguyễn Đắc Vỹ (2016) định nghĩa hộ gia đình là một tập hợp các cá nhân có mối quan hệ gắn bó, được pháp luật công nhận và có khả năng phát triển kinh tế thông qua sự phân công lao động trong nội bộ hộ gia đình.
Hộ gia đình là nhóm người sống chung trong một gia đình, được hình thành dựa trên các mối quan hệ hôn nhân và huyết thống (hoặc không huyết thống) được pháp luật công nhận.
Theo Ellis (1993), nông hộ là những hộ gia đình có nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp và sử dụng lao động gia đình cho sản xuất nông nghiệp Đồng Đức (2014) trích dẫn định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 2001) cho rằng một hộ gia đình được coi là hộ nông nghiệp khi ít nhất một thành viên trong gia đình điều hành một tổ chức nông dân, với nguồn thu nhập chính từ hoạt động kinh tế nông nghiệp.
Theo Nguyễn Như Tiên (2016), hộ gia đình nông thôn chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, với các thành viên cùng sở hữu tài sản chung và đóng góp công sức vào các hoạt động kinh tế, bao gồm sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực kinh doanh khác.
Nghiên cứu này xác định nông hộ là các hộ gia đình tại huyện Bến Cầu, nơi mà nguồn thu nhập chủ yếu đến từ các hoạt động kinh tế nông nghiệp.
2.1.3 Thu nhập và thu nhập bình quân đầu người nông hộ
Singh và cộng sự (1986), cho rằng thu nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và hoạt động phi nông nghiệp
Theo Bộ Luật Lao động Việt Nam (2012), thu nhập của người lao động bao gồm tiền lương, tiền thưởng, chia phần lợi nhuận, phụ cấp và các khoản thu khác, trong đó tiền lương chiếm tỷ trọng lớn nhất Thu nhập được định nghĩa là toàn bộ số tiền và hiện vật có giá trị được quy thành tiền mà cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, bao gồm cả công việc chính thức và phi chính thức.
Theo Tổng Cục Thống kê (2016), thu nhập của hộ gia đình được định nghĩa là tổng số tiền và giá trị hiện vật quy đổi ra tiền sau khi đã trừ đi các khoản chi phí sản xuất mà hộ và các thành viên trong hộ nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Trong nghiên cứu này, thu nhập nông hộ được định nghĩa là tổng số tiền và giá trị hiện vật quy đổi thành tiền từ hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp, sau khi đã trừ đi các khoản chi phí sản xuất trong vòng một năm.
Thu nhập bình quân đầu người nông hộ là chỉ số phản ánh số tiền trung bình mà mỗi thành viên trong gia đình nông hộ nhận được trong một năm Chỉ số này được tính bằng cách lấy tổng thu nhập của nông hộ chia cho số lượng thành viên trong gia đình.
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ đề ra Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, nhằm tổ chức cuộc sống của cư dân nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái Chương trình tập trung phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, phù hợp với quy hoạch xây dựng làng, xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương Để đạt được mục tiêu này, cần kết hợp hỗ trợ từ Nhà nước với việc phát huy nội lực của cộng đồng dân cư Ngoài ra, chương trình cũng chú trọng nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức đời sống văn hóa cơ sở, đồng thời xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, thực hiện "mỗi làng một nghề" để phát triển sản xuất hàng hóa cả trong nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới Theo đó, một xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới phải đảm bảo 19 tiêu chí, bao gồm quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an ninh, trật tự xã hội.
Mô hình lý thuyết có liên quan
2.2.1 Lý thuyết về thu nhập
Tống Quốc Bảo (2015, trích từ Mincer, 1974 và Becker, 1964) nhấn mạnh rằng giáo dục và đào tạo không chỉ nâng cao kỹ năng và kiến thức của cá nhân mà còn tăng năng suất và lợi nhuận của họ Theo lý thuyết vốn nhân lực, giáo dục và đào tạo là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển kinh tế cá nhân Mincer (1974) đã phát triển hàm thu nhập, được gọi là hàm Mincer, mô tả mối quan hệ giữa thu nhập và các yếu tố như giáo dục và kinh nghiệm: lnY = β 0 + β 1 EDUi + β 2 EXPi + β 3 EXPi 2 + α k X k + ℰ i.
Trong mô hình nghiên cứu, lnYi đại diện cho logarit thu nhập hàng tháng của người lao động i, trong khi EDUi là số năm học của họ Các biến EXPi và EXPi^2 lần lượt thể hiện số năm kinh nghiệm và bình phương của nó Hệ số β1 của EDUi cho thấy suất sinh lợi trung bình từ một năm học bổ sung, không phụ thuộc vào cấp học Biến EDU có thể được chuyển đổi thành các cấp học khác nhau thông qua các biến giả, nhằm phân tích sự khác biệt thu nhập giữa các cấp học Ngoài ra, Xk là vec-tơ các biến số khác có ảnh hưởng đến tiền công của người lao động.
Theo Scoones (1998), thu nhập của hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi bốn yếu tố chính: vốn tự nhiên, vốn tài chính, vốn con người và vốn xã hội Vốn tự nhiên, bao gồm đất đai, không khí và nước, là nền tảng cho mọi hoạt động kinh tế Vốn tài chính liên quan đến các khoản tiết kiệm và tín dụng Vốn con người thể hiện qua giáo dục, lực lượng lao động và giới tính, ảnh hưởng đến hiệu quả lao động và sản xuất Cuối cùng, vốn xã hội là sự hợp tác giữa con người, bao gồm sự tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau và chia sẻ các giá trị đạo đức, tạo nên sự gắn kết trong các cộng đồng.
Theo Dr Anna Kaisa Karttunen (2012), nông nghiệp vẫn là nguồn sinh kế chính cho nhiều cư dân nông thôn ở các nước đang phát triển, nhưng các hộ gia đình nông thôn thường thay đổi hoạt động kinh tế của mình dưới các điều kiện khác nhau Họ có thể tăng cường, mở rộng hoặc đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, cũng như mở rộng hoạt động ra ngoài lĩnh vực nông nghiệp Nghiên cứu của OECD chỉ ra rằng ở cấp hộ nông hộ, các mô hình đa dạng được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Vốn con người bao gồm các yếu tố như tuổi tác, kinh nghiệm, trình độ giáo dục và đào tạo, cùng với các phẩm chất cá nhân như thái độ đối với rủi ro, trí thông minh và động lực Những đặc điểm này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng và hiệu suất làm việc của mỗi cá nhân.
Trang trại và kinh doanh trang trại có những đặc điểm quan trọng như cơ sở vốn và khả năng tiếp cận tín dụng, quy mô trang trại, khả năng sinh lời, loại đất và mô hình doanh nghiệp liên quan Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong việc phát triển và duy trì hoạt động kinh doanh hiệu quả.
Môi trường xung quanh trang trại có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận thị trường và sản lượng đa dạng Việc gần gũi với các thị trường tiềm năng tạo cơ hội việc làm phi nông nghiệp và phát triển các mạng lưới địa phương, cả chính thức lẫn phi chính thức Hơn nữa, cơ sở hạ tầng giao thông và công nghệ thông tin tốt giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của trang trại.
2.2.2 Lý thuyết về tiền lương
Mức lương của người lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, dẫn đến thu nhập khác nhau cho từng cá nhân Sự chênh lệch tiền lương chủ yếu xuất phát từ khả năng lao động và nỗ lực của mỗi người, thể hiện qua kết quả công việc Những khác biệt này thường liên quan đến chi phí đầu tư cho giáo dục và đào tạo của bản thân lao động, cũng như yêu cầu của công việc.
Trong giai đoạn kinh tế phát triển, nghiên cứu của các nhà kinh tế như N.G Mankiw và Robert S Pindyck cho thấy mức tiền lương của người lao động phụ thuộc vào sự co giãn cung - cầu lao động trên thị trường Tiền lương sẽ ổn định tại mức gọi là tiền lương cân bằng, nơi lượng cầu bằng lượng cung Đường cầu lao động thể hiện mối quan hệ giữa mức tiền lương và lượng lao động mà doanh nghiệp thuê, nhằm tối đa hóa lợi nhuận Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đường cầu lao động có xu hướng giảm khi lượng lao động tăng, do sản phẩm biên giảm Cung lao động phản ánh mối quan hệ giữa mức lương và lượng lao động cung ứng, với việc tiền lương tăng nhưng khả năng cung cấp sức lao động của người lao động lại bị hạn chế bởi sức khỏe và thời gian Các yếu tố như nhận thức và di cư cũng ảnh hưởng đến cung lao động, với lượng cung tăng khi người lao động muốn tham gia nhiều hơn vào thị trường Trong điều kiện thị trường cạnh tranh, tiền lương phụ thuộc vào cung - cầu lao động, tăng khi cầu tăng hoặc cung giảm, và ngược lại.
Theo nguyên lý kinh tế học về lao động và tiền lương, năng suất biên của lao động và số lượng người tham gia cung ứng lao động là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thu nhập cá nhân Những người có kỹ năng, kinh nghiệm và học vấn cao thường có năng suất biên và mức lương cao hơn Ngược lại, trong các công việc nhẹ nhàng, an toàn không yêu cầu kinh nghiệm, số lượng lao động cung ứng lớn dẫn đến mức lương giảm Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương bao gồm đặc điểm nghề nghiệp, giáo dục đào tạo và kỹ năng của người lao động.
2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình
Nhóm yếu tố liên quan đặc điểm chủ hộ
Nguyễn Thị Ngọc Diệu (2015) nhấn mạnh vai trò quan trọng của người chủ hộ trong việc định hướng phát triển gia đình Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của đồng bào dân tộc Khmer tại huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh cho thấy, khi chủ hộ là nam giới, thu nhập của gia đình sẽ cao hơn so với hộ có chủ hộ là nữ giới Cụ thể, nếu chủ hộ là nam, thu nhập bình quân của hộ đồng bào dân tộc Khmer sẽ tăng thêm 141.109 đồng/tháng, trong khi hộ đồng bào dân tộc Kinh sẽ tăng thêm 475.770 đồng/tháng Điều này chứng tỏ giới tính của chủ hộ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thu nhập bình quân của hộ gia đình.
Nguyễn Như Tiên (2016) cho rằng tuổi của chủ hộ có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập hộ gia đình Trong nghiên cứu về tác động của di cư đối với thu nhập hộ gia đình nông thôn huyện Cái Bè, tác giả đã chỉ ra rằng với mức ý nghĩa 10%, nếu tuổi của chủ hộ tăng thêm 1 tuổi, thu nhập bình quân mỗi người trong hộ sẽ tăng thêm 82.000 đồng/năm, khi các điều kiện khác không đổi.
- Trình độ học vấn chủ hộ
Theo Mincer (1974), giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất cá nhân thông qua việc cải thiện kỹ năng và kiến thức Sự gia tăng này không chỉ giúp cá nhân phát triển mà còn góp phần tăng lợi nhuận cho họ.
Võ Thành Công (2016) trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình ở tỉnh Bình Thuận đã chỉ ra rằng trình độ học vấn của chủ hộ có mối quan hệ tích cực với thu nhập của hộ gia đình Nghiên cứu cũng cho thấy sự khác biệt về thu nhập hộ gia đình giữa năm 2010 và 2015, với kết quả cho thấy trình độ học vấn tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi thu nhập trong giai đoạn này.
Trần Thị Thanh Thủy (2016) trong nghiên cứu của mình về tác động của chính sách khuyến nông đối với thu nhập của hộ nông dân trồng táo ở huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, đã chỉ ra rằng kinh nghiệm của nông hộ có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập Cụ thể, nếu các yếu tố khác không thay đổi, mỗi năm tăng thêm trong việc trồng táo sẽ giúp chủ hộ tăng thu nhập ròng trung bình thêm 1,41 triệu đồng.
Nhóm yếu tố liên quan đặc điểm hộ
- Số lượng lao động của hộ và tỷ lệ người phụ thuộc
Theo Okurut và cộng sự (2002), trong phân tích về nghèo ở Uganda đã kết luận răng quy mô hộ gia đình càng lớn thì hộ càng trở nên nghèo hơn
Tổng quan một số nghiên cứu trước có liên quan
2.3.1 Các nghiên cứu tiêu biểu nước ngoài
Nghiên cứu của Shrestha và Eiumnoh (2000) về các yếu tố quyết định thu nhập của nông hộ tại Thái Lan với cỡ mẫu 192 hộ cho thấy rằng thu nhập từ hoạt động nông nghiệp, phi nông nghiệp, trình độ học vấn, diện tích đất sản xuất và số thành viên trong độ tuổi lao động đều có tác động tích cực đến thu nhập nông hộ Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về thu nhập giữa nông hộ vùng đồng bằng và đồi núi.
Nghiên cứu của Kondo và các cộng sự (2007) đã phân tích tác động của tài chính vi mô đối với hộ gia đình tại Philippines, sử dụng phương pháp hồi quy OLS kết hợp với phương pháp khác biệt trong khác biệt (DID) Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của tín dụng đến các vấn đề của hộ gia đình như phúc lợi, giao dịch tài chính, kinh doanh, việc làm, tài sản, đầu tư vào nhân lực và tỷ lệ giảm đói nghèo trong tiêu dùng thực phẩm Các biến giải thích được xem xét bao gồm tuổi, giới tính, trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô hộ gia đình, số năm sống tại địa phương và diện tích nhà ở.
Tác giả nghiên cứu tác động của tín dụng đối với phúc lợi hộ gia đình, đại diện cho mức sống Kết quả cho thấy tín dụng có ảnh hưởng tích cực đến mức sống của hộ gia đình ở vùng nông thôn Philippines Cụ thể, với mức ý nghĩa 10%, những hộ vay vốn có thu nhập bình quân cao hơn 4.136 Pêsô so với những hộ không vay, và chi tiêu thực phẩm bình quân đầu người cao hơn 1.333 Pêsô.
Nghiên cứu của Kiiru và Machakos (2007) đã điều tra tác động của việc tiếp cận tín dụng đối với thu nhập hộ gia đình tại Kenya, với mẫu gồm 200 hộ tham gia tín dụng và 200 hộ không tham gia Các tác giả đã áp dụng phương pháp khác biệt trong khác biệt (DID) để so sánh tác động trước và sau khi tham gia chương trình tín dụng Tuy nhiên, kết quả từ mô hình không cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê của tín dụng chính thức đối với thu nhập của hộ gia đình.
Theo nghiên cứu của Aikaeli (2010) về 1.610 hộ gia đình nông thôn ở Tanzania, trình độ học vấn của chủ hộ và diện tích đất sản xuất có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập của gia đình Ngoài ra, thu nhập của hộ gia đình do nữ làm chủ thường thấp hơn so với hộ do nam làm chủ, trong khi các hoạt động phi nông nghiệp có thể giúp tăng thu nhập cho hộ.
2.3.2 Các nghiên cứu tiêu biểu trong nước
Theo Đinh Phi Hổ (2007, trích từ Nguyễn Thị Cang, 2012), kiến thức đóng vai trò quan trọng nhất trong sản xuất, đặc biệt là kiến thức nông nghiệp của nông dân, phụ thuộc vào mức độ tham gia vào các hoạt động cộng đồng ở nông thôn Khi các nguồn lực đầu vào giống nhau, hai nông dân có trình độ khác nhau sẽ đạt được kết quả sản xuất khác biệt.
Theo nghiên cứu của Huỳnh Thanh An (2011) về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ sản xuất nông nghiệp ở huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, tác giả đã khảo sát 300 hộ và phát hiện rằng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập được xếp hạng từ cao đến thấp bao gồm: lao động nông nghiệp, vốn, học vấn, sử dụng hệ thống bơm tưới của Nhà nước, quy mô đất, ứng dụng mô hình đa dạng hóa và tín dụng.
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và Bùi Văn Trịnh (2011) về thu nhập của người dân tộc thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với 7 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc, dựa trên dữ liệu điều tra sơ cấp từ 150 hộ Khmer tại Trà Vinh và 90 hộ Chăm tại An Giang Kết quả cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập bình quân/người của hộ dân tộc thiểu số bao gồm trình độ học vấn của chủ hộ, trình độ học vấn của lao động trong hộ, số nhân khẩu, số hoạt động tạo thu nhập, độ tuổi của lao động và khả năng tiếp cận chính sách hỗ trợ.
Phạm Tấn Hòa (2014) đã tiến hành phân tích thu nhập hộ gia đình tại khu vực Đồng Tháp Mười và Long An bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng 21 biến độc lập và 1 biến phụ thuộc từ dữ liệu điều tra sơ cấp của 360 hộ gia đình Nghiên cứu cho thấy có 13 biến có ý nghĩa thống kê, trong đó 10 biến ảnh hưởng tích cực đến thu nhập hộ, bao gồm trình độ học vấn của chủ hộ, tuổi tác, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, khu vực sinh sống, việc làm của chủ hộ, khả năng vay vốn, sở hữu máy móc sản xuất và tài sản khác Ngược lại, 3 biến ảnh hưởng tiêu cực là khoảng cách đến cửa khẩu gần nhất, kinh nghiệm làm việc của chủ hộ và diện tích đất sản xuất Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra rằng thu nhập của hộ gia đình ở khu vực biên giới cao hơn khoảng 80,4% so với khu vực nội địa, nhờ vào sự ưu đãi từ chính quyền về đầu tư hạ tầng, chính sách an sinh xã hội và điều kiện địa lý thuận lợi cho thương mại.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Anh (2015) về sự khác biệt thu nhập giữa hộ trồng thanh long và hộ trồng lúa tại huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận cho thấy thu nhập từ trồng thanh long bị ảnh hưởng bởi 8 yếu tố, bao gồm giới tính và thành phần dân tộc của chủ hộ, kinh nghiệm, tham gia hội đoàn thể, sử dụng phân hữu cơ, diện tích đất trồng, số lao động trong hộ, và vay vốn từ định chế tài chính Trong khi đó, thu nhập từ trồng lúa cũng chịu tác động bởi 8 yếu tố tương tự, với sự bổ sung là kiến thức khuyến nông Qua phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder, tác giả chỉ ra rằng sự khác biệt thu nhập giữa hai nhóm hộ này chủ yếu do các hệ số hồi quy ước lượng và sự phân biệt giữa hộ trồng thanh long và hộ trồng lúa.
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập số liệu từ hộ gia đình để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình thông qua mô hình hồi quy tuyến tính Các yếu tố này được phân loại thành ba nhóm chính: (1) đặc điểm cá nhân của chủ hộ, bao gồm tuổi, giới tính, trình độ học vấn và kinh nghiệm; (2) đặc điểm của hộ gia đình, như số lao động, số người phụ thuộc, diện tích đất canh tác và sự tham gia vào các hội đoàn thể; (3) các yếu tố đặc thù riêng của từng địa phương nghiên cứu.
2.4 Sự khác biệt giữa nghiên cứu của tác giả và các nghiên cứu trước:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết này tập trung vào thu nhập bình quân đầu người của nông hộ tại huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, một đề tài chưa được khai thác trong các nghiên cứu trước đây.
Mô hình nghiên cứu trong đề tài này khác biệt so với các nghiên cứu trước đây nhờ việc tích hợp những biến đặc thù của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới Các yếu tố như chính sách đào tạo nghề nông thôn, hỗ trợ tín dụng, khoảng cách từ đất canh tác đến đường giao thông, thủy lợi và bảo hiểm y tế đã được đưa vào xem xét Đặc biệt, tác giả đã đề xuất bổ sung những yếu tố này vào mô hình nghiên cứu để nâng cao tính chính xác và hiệu quả của nghiên cứu.
Nghiên cứu này giới thiệu hai biến mới chưa được đề cập trong các nghiên cứu trước, bao gồm học vấn bình quân của hộ và tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế, tạo nên sự khác biệt đáng chú ý Bên cạnh đó, phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder được áp dụng để phân tích sự khác biệt về thu nhập giữa các nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới tại huyện Bến Cầu.
Nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều yếu tố như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm của chủ hộ, số lao động, số người phụ thuộc, diện tích đất canh tác và sự tham gia vào hội đoàn thể đều ảnh hưởng đến thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình Tại huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, đề tài “Khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới” nổi bật với đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác biệt, cùng với việc đề xuất học vấn bình quân của hộ và tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế Phương pháp phân rã Oaxaca được áp dụng để phân tích dữ liệu trong nghiên cứu này.
Blinder để tìm ra sự khác biệt thu nhập bình quân đầu người giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới huyện Bến Cầu.
Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của huyện Bến Cầu
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu, đồng thời trình bày phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu cho đề tài Ngoài ra, chương cũng sẽ mô tả quy trình thu thập dữ liệu và lựa chọn mẫu nghiên cứu.
3.1 Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của huyện Bến Cầu
Huyện Bến Cầu, thuộc tỉnh Tây Ninh, nằm ở phía Tây Nam và bao gồm 9 đơn vị hành chính, trong đó có 1 thị trấn Bến Cầu và 8 xã, với 5 xã biên giới và 3 xã nội địa Huyện Bến Cầu giáp huyện Châu Thành ở phía Bắc, huyện Trảng Bàng ở phía Nam, và sông Vàm Cỏ Đông ở phía Đông, tạo thành ranh giới tự nhiên với các huyện lân cận.
Huyện Gò Dầu nằm ở phía Tây giáp Vương quốc Campuchia, với trung tâm huyện lỵ Bến Cầu cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70 km về phía Đông Nam, cách Thành phố Tây Ninh khoảng 32 km về phía Bắc, và cách thủ đô Phnom Penh của Campuchia 170 km.
3.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội huyện Bến Cầu năm 2016
Năm 2016, tổng giá trị sản xuất (GO) của huyện Bến Cầu đạt 6.163 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng 7,14% so với năm 2015 Trong đó, ngành nông - lâm - thuỷ sản tăng 5,49%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 8,74%, và ngành thương mại - dịch vụ tăng 4,1% Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 71,8 tỷ đồng, vượt 22,01% so với dự toán, trong khi tổng chi ngân sách đạt 227,24 tỷ đồng, vượt 3,11% so với dự toán huyện giao.
Xã hội ghi nhận tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 1%, trong khi tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo giảm 1,3% Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cũng giảm xuống còn 15,59% Hơn 1.500 lao động đã được giải quyết việc làm Đồng thời, 9/9 xã, thị trấn duy trì đạt chuẩn phổ cập, với số bác sĩ và giường bệnh trên vạn dân đạt 3,65.
Tại môi trường nông thôn, tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh đạt 97,5% Tất cả các cơ sở sản xuất công nghiệp mới phải có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường Các cơ sở sản xuất đã hoạt động cũng cần khắc phục ô nhiễm môi trường Tại Thị trấn và các khu dân cư trong huyện, 85,4% rác thải sinh hoạt được thu gom và xử lý, trong khi 100% rác thải nguy hại và chất thải y tế được đảm bảo thu gom và xử lý đúng quy định.
3.1.3 Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện Bến Cầu giai đoạn 2011-2016
Dựa trên các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp và nông thôn, bộ mặt nông thôn đã có những chuyển biến tích cực Hạ tầng kinh tế và xã hội được đầu tư mới và nâng cấp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi chuyển dịch theo hướng hiệu quả Khu vực phi nông nghiệp cũng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, đồng thời an ninh - trật tự xã hội được duy trì.
Quá trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương diễn ra dưới sự chỉ đạo tập trung và thống nhất cao, với các cấp ngành ưu tiên lồng ghép vốn từ các chương trình đầu tư vào các xã điểm Sự tuyên truyền và vận động người dân tham gia đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới được tổ chức tích cực Đến năm 2016, toàn huyện có 03 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, gồm Long Khánh, Long Phước và Long Thuận, trong khi 05 xã còn lại chưa đạt chuẩn, với số tiêu chí đạt được từ 9 đến 14.
Tất cả các xã đều đạt 8 tiêu chí quan trọng, bao gồm tiêu chí 1 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch, tiêu chí 3 liên quan đến thủy lợi, tiêu chí 4 về điện, và tiêu chí 8 về bưu điện.
Trong số các tiêu chí đánh giá, có 4 tiêu chí quan trọng là tiêu chí 12 (cơ cấu lao động), tiêu chí 16 (văn hóa), tiêu chí 18 (hệ thống tổ chức chính trị xã hội) và tiêu chí 19 (an ninh, trật tự xã hội) đã được hoàn thành Tuy nhiên, vẫn còn một số tiêu chí chưa đạt yêu cầu, cụ thể là tiêu chí số 2 (giao thông) có 5/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 5 (trường học) cũng còn 5/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 6 (cơ sở vật chất văn hóa) có 5/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 7 (chợ nông thôn) còn 3/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 9 (nhà ở dân cư) có 1/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 10 (thu nhập) cũng còn 1/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 11 (hộ nghèo) còn 2/8 xã chưa đạt; tiêu chí số 13 (hình thức tổ chức sản xuất) có 4/8 xã chưa đạt; và tiêu chí số 14 (giáo dục) còn 2/8 xã chưa đạt.
Trong số 8 xã, hiện có 5 xã chưa đạt tiêu chí y tế và 2 xã chưa đạt tiêu chí môi trường Xã Tiên Thuận, với chỉ 9/19 tiêu chí đạt, là xã khó khăn nhất huyện Bến Cầu và dự kiến sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn thành tiêu chí nông thôn mới trong giai đoạn 2015-2020 Kết quả chi tiết thực hiện được trình bày trong phụ lục 2 kèm theo.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả trong quá trình xây dựng nông thôn mới, huyện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và hạn chế Việc công bố quy hoạch và xây dựng đề án diễn ra chậm, trong khi công tác thông tin, tuyên truyền và vận động người dân chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích sự tham gia tích cực Trình độ và năng lực của một số xã với vai trò chủ đầu tư còn hạn chế, cùng với đó, nguồn vốn triển khai chương trình chủ yếu dựa vào nguồn vốn lồng ghép từ các chương trình khác, ngân sách địa phương và vốn sự nghiệp của các sở, ngành, dẫn đến nguồn vốn đầu tư không đồng bộ và hạn chế Ngoài ra, cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới thường kiêm nhiệm nhiều công việc khác, và vấn đề xã hội hóa chưa được các cấp, ngành quan tâm đúng mức, gây khó khăn trong việc vận động người dân tham gia xây dựng nông thôn mới.
Quy trình nghiên cứu
Đề tài "Khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới ở huyện Bến Cầu" được thực hiện qua quy trình xác định vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài.
Dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu trước, mô hình nghiên cứu sơ bộ được xây dựng Kết quả từ nghiên cứu định tính sẽ giúp hoàn thiện mô hình nghiên cứu chính thức cho đề tài Tiếp theo, bảng câu hỏi khảo sát sẽ được thiết kế và hoàn chỉnh thông qua nghiên cứu thử.
Tiến hành thu thập dữ liệu nghiên cứu tại các xã của huyện Bến Cầu, sau đó tổng hợp, làm sạch và mã hóa mẫu điều tra khảo sát để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong nghiên cứu.
Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng phần mềm MS Excel và SPSS, bao gồm thống kê mô tả các biến và phân tích hồi quy để kiểm tra mối quan hệ giữa các biến theo giả thuyết ban đầu Đồng thời, quá trình này cũng kiểm định độ phù hợp của mô hình và xác định mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đối với biến phụ thuộc trong nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài “Khác biệt trong thu nhập bình quân đầu người giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới ở huyện Bến Cầu” nghiên cứu sự chênh lệch thu nhập giữa các nông hộ Nghiên cứu này tập trung vào việc so sánh thu nhập của nông dân trong xã đạt chuẩn nông thôn mới và nông dân ngoài xã, nhằm làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự khác biệt này Kết quả sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình kinh tế của nông hộ, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao thu nhập cho nông dân trong khu vực.
Vấn đề nghiên cứu mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng mô hình nghiên cứu
Thiết kế bảng câu hỏi
Làm sạch dữ liệu và mã hóa dữ liệu
Kết quả nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn nghiên cứu sơ bộ, áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính để thu thập thông tin ban đầu, và giai đoạn nghiên cứu chính thức, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm phân tích dữ liệu một cách chi tiết và chính xác hơn.
Phương pháp nghiên cứu định tính đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra các yếu tố trong mô hình giả thuyết, từ đó làm cơ sở cho việc thiết lập mô hình nghiên cứu và bảng câu hỏi để thu thập dữ liệu cho nghiên cứu định lượng Chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn với Phó ban trực thuộc Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện Bến Cầu cùng với các Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Trưởng Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới của các xã trong huyện, nhằm đánh giá kết quả thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương Qua ý kiến của các chuyên gia, chúng tôi đã xác định được cơ sở để phát triển mô hình nghiên cứu hiệu quả.
Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp các hộ dân tại 08 xã của huyện Dựa trên số liệu thu thập, nghiên cứu sẽ phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập bình quân đầu người của nông hộ tại 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 05 xã còn lại.
Phân tích dữ liệu sử dụng phần mềm MS Excel và SPSS giúp thực hiện các phân tích thống kê mô tả và hồi quy để kiểm tra mối quan hệ giữa các biến theo giả thuyết ban đầu Việc này bao gồm kiểm định độ phù hợp của mô hình và xác định ảnh hưởng của các biến độc lập lên biến phụ thuộc Đồng thời, áp dụng phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder để phân tích sự khác biệt thu nhập giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới huyện Bến Cầu, từ đó đề xuất một số chính sách phù hợp.
Huyện Bến Cầu đã chọn 8/9 xã và thị trấn để đầu tư xây dựng chương trình Nông thôn mới, trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ phân tích 2 nhóm nông hộ cụ thể.
Bảng 3.1: Phân nhóm nông hộ trên địa bàn huyện Bến Cầu
Nhóm I: Nông hộ thuộc xã đạt chuẩn nông thôn mới
(Số hộ: 4.456 hộ, với 15.953 khẩu)
Nhóm II: Nông hộ thuộc các xã đang xây dựng theo tiêu chuẩn nông thôn mới
(Số hộ: 11.738 hộ, với 42.339 khẩu)
Mô hình nghiên cứu
Từ cơ sở lý thuyết, nghiên cứu trước và tình hình thực tế tại địa phương, đề tài
Khác biệt về thu nhập bình quân đầu người giữa nông hộ trong và ngoài xã đạt chuẩn nông thôn mới ở huyện Bến Cầu cho thấy sự chênh lệch rõ rệt Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao đời sống cho người dân trong khu vực Việc đạt chuẩn nông thôn mới không chỉ cải thiện cơ sở hạ tầng mà còn góp phần tăng cường thu nhập cho nông hộ, tạo động lực phát triển kinh tế bền vững cho huyện Bến Cầu.
Khác biệt thu nhập bình quân đầu người giữa các nhóm nông hộ
Thu nhập bình quân đầu người nông hộ
Trình độ học vấn chủ hộ
Học vấn bình quân của hộ
Diện tích đất canh tác
Tham gia hội, đoàn thể
Tham gia đào tạo nghề
Khoảng cách từ đất canh tác đến đường giao thông
Tỷ lệ thành viên tham gia
3.4.1 Phương trình nghiên cứu đưa ra:
* Phương trình các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ nhóm I
* Phương trình các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ nhóm II
- Yi: là biến phụ thuộc
+ YI: là biến phụ thuộc (thu nhập bình quân người/nông hộ nhóm I)
+ YII: là biến phụ thuộc (thu nhập bình quân người/nông hộ nhóm II)
Nhóm I bao gồm các nông hộ từ ba xã đạt chuẩn nông thôn mới là Long Khánh, Long Phước và Long Thuận, trong khi nhóm II gồm các nông hộ từ năm xã còn lại (Long Chữ, Long Giang, Lợi Thuận, An Thạnh và Tiên Thuận) đang trong quá trình xây dựng theo tiêu chuẩn nông thôn mới tại huyện Bến Cầu.
- β0: là hằng số hồi quy
- β1, β2, … Β16: là hệ số hồi quy
+ X1: Giới tính chủ hộ (biến giả)
+ X3: Trình độ học vấn chủ hộ (số năm đi học của chủ hộ)
+ X4: Kinh nghiệm chủ hộ (số năm làm việc của chủ hộ)
+ X6: Số người phụ thuộc (người)
+ X7: Trình độ học vấn bình quân của hộ (số năm đi học bình quân của số lao động của hộ)
+ X8: Diện tích đất canh tác (1.000 m 2 )
+ X9: Tham gia hội, đoàn thể (biến giả)
+ X10: Tham gia đào tạo nghề lao động nông thôn (biến giả)
+ X11: Vay vốn tín dụng (biến giả)
+ X12: Khoảng cách từ đất sản xuất đến tuyến giao thông gần nhất (Km) + X13: Thủy lợi (biến giả)
+ X14: Tỷ lệ thành viên tham gia Bảo hiểm y tế (%)
3.4.2 Đo lường các biến trong mô hình và giả thuyết nghiên cứu
3.4.2.1 Đo lường các biến trong mô hình
YI là thu nhập bình quân mỗi người trong nông hộ nhóm I, được tính bằng cách chia tổng thu nhập của hộ cho số thành viên trong hộ trong vòng một năm, với đơn vị tính là 1.000 đồng.
YII là thu nhập bình quân của mỗi người hoặc nông hộ thuộc nhóm II, được tính bằng cách chia tổng thu nhập của hộ cho số thành viên trong hộ trong khoảng thời gian một năm, với đơn vị tính là 1.000 đồng.
Bảng 3.2: Mô tả biến và kỳ vọng dấu
Diễn giải biến Cách đo lường Kỳ vọng dấu Nghiên cứu trước
2 X2 Tuổi chủ hộ Năm điều tra trừ đi năm sinh + Nguyễn Như Tiên
3 X3 Trình độ học vấn chủ hộ
Là số năm đi học của chủ hộ + Mincer (1974), Võ
Kinh nghiệm làm việc của chủ hộ
Là số năm làm việc chủ hộ + Trần Thị Thanh
Số người trong độ tuổi lao động, bao gồm nam từ 15 đến 60 tuổi và nữ từ 15 đến 55 tuổi, được xác định bằng cách trừ đi số người trên 15 tuổi không tạo ra thu nhập cho gia đình.
Số người trên 15 tuổi mà không tạo ra thu nhập cho gia đình và số người dưới 15 tuổi
(2002, trích bởi Pham Tấn Hòa, 2014); Lê Quang Vũ
Trình độ học vấn bình quân của hộ
Là số năm đi học bình quân của số lao động tạo ra thu nhập của hộ
8 X8 Diện tích đất canh tác
Diện tích đất mà hộ đang sản xuất (1.000m 2 )
9 X9 Tham gia hội, đoàn thể
Chủ hộ hoặc thành viên trong gia đình có tham gia các tổ chức hội đoàn thể Không tham gia:0
10 X10 Tham gia đào tạo nghề
Chủ hộ hoặc thành viên trong gia đình có tham gia các các lớp đào tạo nghề lao đông nông thôn
Chủ hộ hoặc thành viên trong gia đình có vay vốn từ tổ chức tín dụng Không vay vốn:0
Khoảng cách từ đất sản xuất đến tuyến giao thông (Km) Được đo lường bằng khoảng cách (Km) từ đất sản xuất đến tuyến giao thông gần nhất
Khi hệ thống thủy lợi được Nhà nước đầu tư thuận lợi cho việc tưới tiêu thì giảm chi phí sản xuất
Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm y tế
Tỷ lệ giữa số thành viên tham gia bảo hiểm y tế trên tổng số thành viên của hộ (tính bằng %)
3.4.2.2 Các giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu cho thấy giới tính của chủ hộ ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của nông hộ, với kỳ vọng rằng hộ có chủ hộ nam sẽ có thu nhập cao hơn so với hộ có chủ hộ nữ Theo Nguyễn Thị Ngọc Diệu (2015), các gia đình do nam giới làm chủ thường đạt được mức thu nhập cao hơn so với các hộ gia đình do nữ giới làm chủ.
Giả thuyết H1: Giới tính của chủ hộ là Nam có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Nghiên cứu cho thấy, tuổi của chủ hộ có mối liên hệ trực tiếp với thu nhập bình quân của nông hộ, với kỳ vọng rằng tuổi càng cao thì thu nhập sẽ càng lớn Theo Nguyễn Như Tiên (2016), tuổi tác của chủ hộ ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập của hộ gia đình.
Giả thuyết H2: Tuổi của chủ hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Trình độ học vấn của chủ hộ có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận khoa học công nghệ và ứng dụng vào sản xuất Càng học nhiều năm, hộ gia đình càng có cơ hội tăng thu nhập Theo Võ Thành Công (2016), mối quan hệ giữa trình độ học vấn của chủ hộ và thu nhập hộ gia đình là tích cực.
Giả thuyết H3: Trình độ học vấn của chủ hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của chủ hộ, như được nêu bởi Trần Thị Thanh Thủy (2016), có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập của nông hộ Số năm kinh nghiệm càng nhiều thì khả năng tăng trưởng thu nhập càng cao.
Giả thuyết H4: Kinh nghiệm của chủ hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Số lao động của hộ trong sản xuất nông nghiệp bao gồm tất cả những người tham gia, từ những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) đến các thành viên ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng tham gia.
An (2011), số lao động của hộ có tác động tích cực đến thu nhập hộ gia đình
Giả thuyết H5: Số lao động của hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Số người phụ thuộc trong mỗi hộ gia đình, bao gồm trẻ em, người già và những người bị bệnh, là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thu nhập của gia đình Theo Lê Quang Vũ (2015), sự hiện diện của những thành viên này trực tiếp làm giảm thu nhập bình quân của hộ, từ đó tác động đến tình hình tài chính chung của gia đình.
Giả thuyết H6: Số người phụ thuộc có tác động âm (-) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Trình độ học vấn bình quân của hộ gia đình được tính bằng cách lấy tổng số năm đi học của tất cả lao động trong hộ chia cho số lượng lao động trong hộ Điều này giúp đánh giá mức độ giáo dục trung bình của các thành viên trong gia đình.
Giả thuyết H7: Trình độ học vấn bình quân của hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Diện tích đất canh tác, được đo bằng đơn vị 1.000m², là chỉ số quan trọng cho biết quy mô sản xuất của mỗi hộ gia đình Theo Đồng Đức (2014), đất là yếu tố sản xuất thiết yếu đối với người dân nông thôn, và diện tích đất nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cũng như cải thiện chi tiêu của hộ gia đình.
Giả thuyết H8: Diện tích đất canh tác có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Tham gia hội, đoàn thể giúp hộ gia đình tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn tín dụng, chương trình hỗ trợ đào tạo nghề, và thông tin khoa học công nghệ cũng như giá cả thị trường Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Diệu (2015), sự tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội địa phương không chỉ tạo điều kiện thuận lợi mà còn góp phần tăng thu nhập cho hộ gia đình.
Giả thuyết H9: Tham gia hội, đoàn thể của hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Tham gia đào tạo nghề lao động nông thôn giúp các hộ gia đình dễ dàng tiếp cận thông tin khoa học công nghệ hơn so với những hộ không có người tham gia Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bảo (2015), những hộ có lao động chính được đào tạo về kiến thức nông nghiệp có thu nhập bình quân/lao động cao hơn so với những hộ không được đào tạo.
Giả thuyết H10: Tham gia lớp đào tạo nghề lao động nông thôn của hộ có tác động dương (+) đến thu nhập bình quân của nông hộ
Mẫu nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu này tiến hành phỏng vấn trực tiếp 320 hộ gia đình, trong đó có 160 hộ từ 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới (Long Khánh, Long Phước, Long Thuận) và 160 hộ từ 05 xã còn lại (Long Chữ, Long Giang, Lợi Thuận, An Thạnh, Tiên Thuận) Mục tiêu là tìm hiểu về hoạt động tạo thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân.
Theo Green (1991), được trích dẫn từ Trương Châu (2013), công thức tính kích thước mẫu cho hồi quy tuyến tính đa biến được xác định là n > 50 + 8p, trong đó n là kích thước mẫu tối thiểu cần thiết và p là số lượng biến độc lập trong mô hình Nghiên cứu này sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính đa biến với 14 biến độc lập, do đó kích thước mẫu tối thiểu của nghiên cứu là n > 50 + 8*14.
50 + 8 x 14 = 162 Số mẫu nghiên cứu này là 320 mẫu, lớn hơn 162 nên đa ̣t yêu cầu về kích thước mẫu
Theo Niên giám thống kê huyện Bến Cầu năm 2016, toàn huyện có 18.613 hộ, trong đó 08 xã xây dựng nông thôn mới chiếm 16.194 hộ Dựa trên số liệu này, nghiên cứu đã chọn 160 hộ từ xã nhóm I và 160 hộ từ xã nhóm II để phân tích.
II, cu ̣ thể như sau:
Bảng 3.3: Mẫu điều tra cho từng xã trên địa bàn huyện Bến Cầu
STT Tên xã Số hộ Số hộ được chọn Tỷ lệ (%)
Ghi chú: năm hoàn thành xây dựng NTM
1 Long Chữ 1.525 20 1,31 Dự kiến hoàn thành năm 2017
Phương pháp chọn mẫu khảo sát trong nghiên cứu này sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, tức là lấy mẫu dựa trên sự dễ tiếp cận của đối tượng, cụ thể là nông hộ Điều tra viên có thể phỏng vấn bất kỳ nông hộ nào trong khu vực khảo sát; nếu người được phỏng vấn không đồng ý, điều tra viên sẽ chuyển sang đối tượng khác Quá trình này tiếp tục cho đến khi đạt đủ số mẫu cần thiết.
Trong 160 mẫu của nhóm I, bình quân chọn 50 mẫu/xã, xã Long Khánh được chọn 60 mẫu vì là xã đầu tiên đạt chuẩn nông thôn mới của huyện, nhằm phản ánh tốt hơn tác động của chương trình đến thu nhập nông hộ Đối với nhóm II, trong 160 mẫu, bình quân 35 mẫu/xã, xã Long Chữ đang trong quá trình hoàn thành đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2017 nên chỉ chọn 20 mẫu, do tác động của chương trình tại đây chưa phản ánh chính xác do xã đang chuyển trạng thái từ chưa đạt chuẩn sang đạt chuẩn.
3.5.2 Nguồn dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng trong bài viết này bao gồm Niên giám thống kê huyện Bến Cầu năm 2016 và các báo cáo từ Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của huyện trong giai đoạn 2011-2016.
Số liê ̣u sơ cấp: Đề tài sử du ̣ng số liê ̣u sơ cấp thông qua viê ̣c điều tra trực tiếp
Bảng câu hỏi chuẩn bị sẵn đã được sử dụng để khảo sát 320 hộ gia đình thuộc 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới, bao gồm Long Khánh, Long Phước và Long Thuận, cùng với 05 xã còn lại là Long Chữ, Long Giang, Lợi Thuận, An Thạnh và Tiên Thuận.
3.5.3 Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm MS Excel để nhập dữ liệu và phần mềm chuyên dụng SPSS để phân tích dữ liệu
Sau khi phân tích và tổng hợp dữ liệu, báo cáo đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ tại 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới (Long Khánh, Long Phước, Long Thuận) và 05 xã còn lại (Long Chữ, Long Giang, Lợi Thuận, An Thạnh, Tiên Thuận) Phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder được áp dụng để xác định sự khác biệt thu nhập giữa nông hộ trong và ngoài các xã đạt chuẩn nông thôn mới tại huyện Bến Cầu Từ đó, báo cáo đề xuất một số chính sách nhằm nâng cao thu nhập cho nông hộ địa phương.
* Phương pháp phân rã Oaxaca –Blinder
Theo Lê Bảo Lâm và cộng sự (2015), phương pháp phân rã Oaxaca – Blinder, được phát triển từ năm 1973, là một công cụ phổ biến trong phân tích kinh tế để đánh giá sự khác biệt giữa các nhóm Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt này được chia thành hai thành phần: phần có thể giải thích được do sự khác biệt về đặc điểm giữa hai nhóm, và phần còn lại không thể giải thích, phản ánh những phân biệt đối xử tồn tại.
Theo Oaxaca, phương pháp tính toán sự khác biệt về thu nhập giữa hai nhóm nông hộ ở xã đạt chuẩn nông thôn mới và xã không đạt chuẩn nông thôn mới được mô tả như sau: giả định có hai nhóm nông hộ là I và II, trong đó biến thu nhập bình quân đầu người hàng năm (biến phụ thuộc) là Y, và các biến độc lập là X Câu hỏi đặt ra là mức chênh lệch giá trị trung bình của biến phụ thuộc giữa hai nhóm này là bao nhiêu.
Nhóm nông hộ được phân chia thành hai loại: I và II, với biến phụ thuộc là thu nhập bình quân đầu người/năm (Y) và các biến độc lập (X) Theo mô hình phân rã Oaxaca – Blinder, thu nhập bình quân đầu người/năm (Y) được thể hiện thông qua một phương trình cụ thể.
- Phương trình nhóm nông hộ I: Y I = X I B I + u I
- Phương trình nhóm nông hộ II: Y II = X II B II + u II
Giá trị trung bình của các biến số và các thông số được ước lượng tại mỗi nhóm được lần lượt bằng hai phương trình, như sau:
Khoảng cách giữa nhóm nông hộ I và nhóm nông hộ II trong giá trị trung bình của biến phụ thuộc Y được thể hiện qua các phương trình: 𝑌̅ 𝐼 = 𝐵 0 𝐼 + 𝑋̅̅̅𝐵 𝐼 ̂ 𝐼 + 𝑢 𝐼 và 𝑌̅̅̅̅ 𝐼𝐼 = 𝐵 0 𝐼𝐼 + 𝑋̅̅̅̅𝐵 𝐼𝐼 ̂ 𝐼𝐼 + 𝑢 𝐼𝐼 Các phương trình này cho thấy sự khác biệt trong giá trị trung bình của Y giữa hai nhóm nông hộ, phản ánh ảnh hưởng của các yếu tố độc lập đến biến phụ thuộc.
Sau khi cộng và trừ 𝑋̅̅̅̅𝐵 𝐼𝐼 ̂ 𝐼 , phương trình khoảng cách ở trên được biến đổi thành:
Thành phần (𝑋̅̅̅ − 𝑋 𝐼 ̅̅̅̅) 𝐵 𝐼𝐼 ̂ 𝐼 phản ánh khoảng cách giữa các biến phụ thuộc do sự khác biệt trung bình ở các đặc tính quan sát được giữa nhóm I và nhóm II Nếu nhóm I và nhóm II có cấp độ giống nhau ở biến X, thành phần này sẽ bằng 0 Ngoài ra, thành phần 𝑋̅̅̅̅(𝐵 𝐼𝐼 ̂ 𝐼 -𝐵̂ ) thể hiện sự khác biệt trong các hệ số hồi quy 𝐼𝐼 được ước lượng Nếu các hệ số này giống nhau giữa hai nhóm, thành phần này cũng sẽ bằng 0.
0 (khoảng cách hầu như phụ thuộc vào sự khác biệt trong các đặc điểm của tưng thành phần trong nhóm)
Như vậy sự khác nhau được diễn tả như sau: a) Sự khác nhau do đặc tính giữa các nhóm hộ tạo ra (phần có thể thích)
𝐸 = (𝑋̅̅̅ − 𝑋 𝐼 ̅̅̅̅)𝐵 𝐼𝐼 ̂ 𝐼 b) Sự khác nhau do sự khác nhau của các hệ số giữa các nhóm hộ tạo ra:
𝐶 = 𝑋 𝐼𝐼 (𝐵̂ − 𝐵 𝐼 ̂ 𝐼𝐼 ) c) Thành phần không thể lý giải được giữa các nhóm hộ tạo ra:
𝑈 = 𝐵 0 𝐼 − 𝐵 0 𝐼𝐼 d) Thành phần khác biệt do sự phân biệt giữa các nhóm hộ tạo ra:
Để thực hiện phân rã trong mô hình hồi quy tuyến tính, bạn cần thực hiện các bước sau: đầu tiên, chạy hồi quy cho từng mẫu I và II; tiếp theo, ước lượng giá trị của X I và X II; sau đó, tính sự khác biệt tổng thể; tiếp theo, tính sự khác biệt do phần có thể giải thích dựa trên các đặc tính; cuối cùng, tính sự khác biệt do phần không thể giải thích, tức là sự khác biệt do sự phân biệt giữa các nhóm hộ tạo ra.
Chương này trình bày tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội huyện Bến Cầu, cùng với phương pháp chọn mẫu và phân tích dữ liệu Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên một biến phụ thuộc là thu nhập bình quân nông hộ (Y) và 14 biến độc lập, bao gồm giới tính, tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm của chủ hộ, số lao động, số người phụ thuộc, trình độ học vấn bình quân của hộ, diện tích đất canh tác, tham gia hội đoàn thể, đào tạo nghề, vay vốn tín dụng, khoảng cách từ đất sản xuất đến giao thông, thủy lợi, và tỷ lệ tham gia Bảo hiểm y tế Qua phân tích, tác giả kỳ vọng xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ và kiểm định tính chính xác của mô hình.