Tình hình chênh ệlch thu nhập hiện nay ở Việt Nam
Chênh ệlch thu nhập giữa 20% người giàu nh ất và 20% ng ười nghèo nhất
Gần đây, với sự gia tăng đầu tư và tăng trưởng kinh tế, khoảng cách thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất ngày càng nới rộng Sự chênh lệch này được thể hiện rõ trong bảng số liệu dưới đây.
Bảng 1: Thu nhập bình quân đầu người và chênh ệlch thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người / tháng Chênhệlch thu theo giá thực tế (nghìn đồng) nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm th ấp
Nhóm thu nh ập Nhóm thu nh ập nhất (lần) cao nhất thấp nhất
Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình các năm, Tổng cục thống kê.
Theo số liệu từ bảng 1, chênh lệch thu nhập giữa nhóm ngũ phân nghèo nhất và nhóm ngũ phân giàu nhất đã liên tục gia tăng Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2008 và từ 2008 đến 2010, khoảng cách này đã tăng nhanh hơn so với các giai đoạn trước đó.
So sánh cấu trúc nguồn thu nhập giữa nhóm người giàu nhất và nhóm người nghèo nhất cho thấy sự chênh lệch rõ rệt, như được thể hiện trong Bảng 2 dưới đây.
Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010 của Tổng cục Thống kê, thu nhập của hộ dân cư chủ yếu tăng từ tiền lương, tiền công và công việc tự làm xây dựng Trong tổng thu nhập, tỷ trọng thu từ tiền lương, tiền công chiếm 44,9%; nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 20,1%; công nghiệp, xây dựng chiếm 5,7%; dịch vụ chiếm 17,9%; và thu khác chiếm 11,4% Cơ cấu thu nhập năm 2010 đã có sự chuyển biến đáng kể, với sự gia tăng của thu từ tiền lương, tiền công và dịch vụ, trong khi thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm Sự chênh lệch giữa nhóm ngũ phân giàu nhất và nghèo nhất thể hiện rõ, khi nhóm 5 chủ yếu có thu nhập từ tiền công/tiền lương (hơn 46%), trong khi nhóm 1 vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp (47%), với đóng góp từ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ gần như không đáng kể.
Từ năm 2002 đến 2010, mức thu nhập của nhóm thu nhập thấp tăng chậm hơn so với các nhóm thu nhập cao hơn, với tốc độ tăng thu nhập của nhóm 1 chỉ đạt 3,4 lần, thấp hơn nhóm 4 và 5 (3,9 đến 4 lần) Mặc dù thu nhập bình quân của hộ gia đình có xu hướng tăng lên, sự gia tăng này không đồng đều, dẫn đến sự chênh lệch giàu - nghèo ngày càng gia tăng.
5 Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2010, Tổng cục Thống kê.
Bảng 2 Thu nhập bình quân nhân kh ẩu 1 tháng chia theo nguồn thu của nhóm ng ũ phân giàu nh ất và nhóm nghèo nhất
Tiền lương/ tiền Nông nghi ệp Lâm nghi ệp Thủy sản Công nghi ệp Xây d ựng Thương Dịch vụ Khác công nghiệp
Tỷ lệ giá trị là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá và phân tích hiệu suất tài chính Nó giúp xác định mối quan hệ giữa các biến số kinh tế và hỗ trợ ra quyết định đầu tư Việc theo dõi và so sánh tỷ lệ giá trị thường xuyên sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
(nghìn (nghìn (nghìn (nghìn (nghìn (nghìn (nghìn (nghìn (nghìn
% đồng) % đồng) % đồng) % đồng) % đồng) % đồng) % đồng) % đồng) % đồng)
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2010, Tổng cục Thống kê
Tình trạng chênh lệch thu nhập tuyệt đối ở Việt Nam đang gia tăng đáng lo ngại, với thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình giàu nhất gấp 9,2 lần so với hộ nghèo nhất vào năm 2010, tăng từ 7 lần vào năm 1995 Hệ số Gini cũng cho thấy sự gia tăng chênh lệch này, từ 0,42 năm 2004 lên 0,43 năm 2010 Tuy nhiên, điều đáng chú ý là người giàu đang trở nên giàu nhanh hơn người nghèo, mặc dù thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cũng đã tăng lên và tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh trong thời gian qua.
Bảng 3 cho thấy sự chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất ở Việt Nam cao hơn nhiều nước châu Á, điều này gây ra lo ngại về sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội tại Việt Nam trong thời gian qua.
Bảng 3 Khoảng cách giàu nghèo ủca Việt Nam và m ột số nước khác
(năm điều tra khác nhau giữa các nước)
Khoảng cách thu nhập của 20% Nước Năm điều tra nghèo nhất so với 20% giàu nh ất
Nguồn: Báo cáo phátển con người 2008, UNDP.
6Tổng cục Thống kê, K ết quả điều tra mức sống hộ gia đình, 2010.
7 Tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã gi ảm nhanh từ 58,1% năm 1993 xuống còn 16% năm 2006.
CIEM, Trung tâm Thông tin – T ư liệu 15
Giữa nông thôn và thành ph ố 16 I.3 Giữa các thành phố và vùng mi ền
Xem xét thu nhập theo vùng kinh tế cho thấy rằng tại các thành phố lớn và khu công nghiệp phát triển, mức thu nhập thường cao hơn đáng kể.
Một điểm đáng chú ý là mức thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tăng từ
Từ năm 1999 đến 2008, mức thu nhập bình quân đầu người tại thành phố tăng từ 295 nghìn đồng lên 995 nghìn đồng/tháng, trong khi ở nông thôn, mức thu nhập cũng tăng từ 225 nghìn đồng lên 762 nghìn đồng/tháng Đến năm 2010, thu nhập bình quân đầu người tại khu vực thành phố vẫn cao gấp hơn 2 lần so với khu vực nông thôn, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa hai khu vực này.
Bảng 4 Thu nhập bình quân đầu người/ tháng thành thị - nông thôn t ừ
Nguồn: Niên giám ốthng kê 2009, Nxb Thống kê, 2010
Sự chênh lệch giàu nghèo không chỉ tồn tại giữa đô thị và nông thôn, mà còn gia tăng ngay trong các vùng quê Theo kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2010, tình trạng này đang trở nên ngày càng nghiêm trọng.
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 12 tỉnh trên cả nước cho thấy tình trạng giãn cách giàu nghèo trong các gia đình nông thôn đang ngày càng gia tăng.
Bảng 5 chỉ ra rằng chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn là đáng kể, với mức thu nhập ở thành phố cao hơn Nguyên nhân có thể do ở những khu vực có xuất phát điểm thấp, khoảng cách giàu nghèo thường nhỏ hơn so với những vùng phát triển hơn.
Bảng 5 Chênhệlch theo khu vực ở Việt Nam
Hệ số Gini theo thu nhập
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình.
Tốc độ gia tăng chênh lệch giữa khu vực nông thôn và thành thị đang ngày càng cao, đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Bộ Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều người dân không có đất hoặc mất đất Cụ thể, tỷ lệ hộ nông thôn không có đất ở Đông Nam Bộ đã tăng từ 17% vào năm 1993 lên 40% vào năm 2004 (Mekong Economics, 2005) Việc thiếu đất canh tác dẫn đến việc nông dân mất nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp.
Giá đất đai tăng mạnh gần đây cùng với tình trạng mất đất của nông dân đã khiến chênh lệch thu nhập gia tăng ở khu vực nông thôn Ngoài ra, hiện tượng di cư tìm việc làm từ nông thôn ra thành phố cũng góp phần làm tăng thu nhập và chi tiêu của những hộ gia đình có người di cư so với những hộ không có.
So với nông thôn, tỷ lệ nghèo ở thành phố giảm nhanh hơn, chỉ còn gần một phần ba Cụ thể, vào năm 2008, tỷ lệ nghèo ở thành phố là 3,3%, chỉ bằng 1/6 so với tỷ lệ nghèo ở nông thôn là 18,7%.
Bài viết của Lê Quốc Hội trong ấn phẩm “Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: cơ hội và thách thức đối với Việt Nam” phân tích tình trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam và đưa ra những khuyến nghị chính sách nhằm cải thiện tình hình Tác giả nhấn mạnh rằng sự chênh lệch thu nhập không chỉ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế mà còn tác động tiêu cực đến xã hội Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp hiệu quả nhằm giảm thiểu bất bình đẳng và tạo ra cơ hội phát triển công bằng cho mọi tầng lớp dân cư.
CIEM, Trung tâm Thông tin – T ư liệu 17
Bảng 6 Tỷ lệ người nghèo chung theo các vùngở Việt Nam từ 1998-2008 (%)
TT Tỷ lệ hộ nghèo 1998 2002 2004 2006 2008
5 Trung du, miền núi 64,5 47,9 38,3 32,3 31,6 phía, Bắc
6 Bắc trung bộ và Duyên 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4 hải miền Trung
9 Đồng bằng sông C ửu 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3 long
Nguồn: Niên giám ốthng kê 2009, Nxb Thống kê, 2010
I.3 Giữa các thành phố và vùng mi ền
I.3.1 Thực trạng chênh ệlch thu nhập giữa các thành phố và vùng mi ền
Theo số liệu mới nhất từ Tổng cục Thống kê năm 2011, chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam đã đạt mức 9,2 lần Cụ thể, thu nhập bình quân của người Việt Nam là 1,387 triệu đồng/người/tháng, trong khi nhóm nghèo nhất chỉ có thu nhập 369.000 đồng mỗi tháng, còn nhóm giàu nhất đạt trên 3,4 triệu đồng Khoảng cách thu nhập giữa các nhóm đang ngày càng gia tăng.
Chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước Kết quả đánh giá mức sống hộ gia đình năm 2010 cho thấy thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng có sự khác biệt rõ rệt, điều này cần được chú ý để cải thiện tình hình.
Vào năm 2010, giá cả ở các vùng đều tăng so với năm 2008, tuy nhiên, thu nhập giữa các vùng lại có sự chênh lệch đáng kể Một số vùng có thu nhập bình quân đầu người cao hơn hẳn so với các khu vực khác.
Theo Tổng cục Thống kê (2011), vùng Đông Nam Bộ có thu nhập bình quân đầu người cao nhất, gấp 2,5 lần so với vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nơi có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất.
Bảng 7 Thu nhập bình quân đầu người theo vùng 1999-2010 (nghìn đồng)
6 Duyên hải Nam 305,8 414,9 550,7 843,3 1162,1 trung bộ
8 Đông Nam B ộ 619,7 833 1064,7 1649,2 2165 Đồng bằng sông 371,3 471,1 627,6 939,9 1247,2
Nguồn: Niên giám ốthng kê 2009, Nxb Thống kê, 2011
Mặc dù Việt Nam đã phân bổ vốn ưu tiên cho các tỉnh nghèo nhằm thúc đẩy phát triển đồng đều, nhưng tốc độ phát triển giữa các khu vực vẫn chênh lệch đáng kể, dẫn đến sự hình thành các "túi nghèo" Các "túi nghèo" này chủ yếu tập trung ở những vùng sâu, vùng xa, như Lào Cai, Điện Biên (trên 50%), Lai Châu, Hà Giang (trên 40%), và Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30%) Ngoài ra, tình trạng tái nghèo cũng đã xuất hiện ở một số khu vực.
Sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các thành phố được thể hiện rõ qua số liệu từ UBND Thành phố Hà Nội Cụ thể, trong năm 2010, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Hà Nội đạt 9-10%, trong khi thu nhập bình quân đầu người đạt từ 36,5-37,5 triệu đồng/năm, tương đương khoảng 1950 USD Đến năm 2011, GDP đã tăng lên 10,1% so với năm trước, với thu nhập bình quân đầu người vượt mức 1850 USD/năm.
10 Viện Nghiên c ứu quản lý kinh t ế TW, 2010.
CIEM, Trung tâm Thông tin – T ư liệu 19
Chênh ệlch thu nhập giữa ngành kinh t ế
Trong thời gian gần đây, chênh lệch thu nhập giữa các ngành kinh tế cũng là một vấn đề nổi cộm cần xem xét.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tiền lương trung bình của người lao động trong năm 2009 ước đạt 2,84 triệu đồng mỗi tháng Cụ thể, doanh nghiệp Nhà nước có mức lương ước đạt 3,35 triệu đồng, trong khi Tổng công ty hạng đặc biệt và công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế Nhà nước đạt 5,9 triệu đồng Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ước đạt 2,65 triệu đồng, và doanh nghiệp dân doanh đạt 2,05 triệu đồng.
Theo thống kê của Bộ LĐ,TB và XH công bố vào tháng 10/2011, tiền lương bình quân của người lao động năm 2010 tiếp tục ổn định và có xu hướng tăng, đạt 3,2 triệu đồng/người/tháng, tăng 10,3% so với năm 2009 Cụ thể, doanh nghiệp nhà nước có mức lương bình quân 3,8 triệu đồng, tăng 8,6%; doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nhà nước đạt 3,3 triệu đồng, tăng 10,0%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 3 triệu đồng, tăng 11,1%; và doanh nghiệp dân doanh đạt 2,7 triệu đồng, tăng 12,5% so với năm trước.
Năm 2010, ngành mỏ luyện kim dẫn đầu về mức lương tại Việt Nam với thu nhập bình quân 9,2 triệu đồng/người/tháng Ngành ngân hàng đứng thứ hai với mức thu nhập 7,6 triệu đồng/người/tháng, theo sau là nhân viên ngành dược với 7 triệu đồng/người/tháng, và ngành điện tử viễn thông với 5,5 triệu đồng/người/tháng.
CIEM, Trung tâm Thông tin – T ư liệu 23
Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2010, nhân viên ngành dệt may, da giày và thực phẩm, mặc dù đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu với hàng tỷ USD (chẳng hạn như Tập đoàn Dệt may Việt Nam xuất khẩu gần 11,2 tỷ USD), nhưng mức lương trung bình chỉ từ 2,1 - 2,3 triệu đồng/người/tháng, đứng ở vị trí thấp trong bảng lương so với các ngành như mỏ, luyện kim, ngân hàng và dược.
Mức lương trung bình của nhân viên trong các ngành hàng đầu thường thấp hơn từ 2,6 đến hơn 4 lần so với các ngành khác Nhiều chuyên gia nhận định rằng mức lương của nhân viên giảng dạy trong ngành giáo dục cũng không cao, khi mà nhiều giáo viên có thâm niên hàng chục năm chỉ nhận lương từ 3 - 4 triệu đồng mỗi tháng Điều này cũng áp dụng cho các kỹ sư và bác sĩ có nhiều năm kinh nghiệm, khi họ cũng nhận được mức lương tương tự.
Nhiều chuyên gia cho rằng sự chênh lệch tiền lương giữa các nghề và vị trí lao động xuất phát từ sự khác biệt về trình độ chuyên môn và kỹ thuật Lao động có chuyên môn cao và quản lý giỏi thường nhận được mức lương cao hơn nhiều so với lao động giản đơn Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn tồn tại những bất cập trong cấu trúc kinh tế hiện nay và những bất ổn kinh tế vĩ mô, dẫn đến sự chênh lệch thu nhập giữa những người có cùng trình độ nhưng làm việc trong các ngành khác nhau.
Hộp 1: Thu nhập của nhân viên ngành ngân hàng
Theo số liệu thống kê từ các ngân hàng năm 2011, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) hiện đang dẫn đầu ngành ngân hàng với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 22,4 triệu đồng/tháng Ngân hàng Công thương Việt Nam xếp sau Vietcombank trong bảng xếp hạng này.
Theo thống kê, thu nhập bình quân của cán bộ, nhân viên tại một số ngân hàng cho thấy Vietinbank có mức lương cao nhất, đạt 20,76 triệu đồng/tháng Sacombank đứng thứ hai với khoảng 14,7 triệu đồng/người/tháng, tiếp theo là ACB với 16 triệu đồng Bảo Việt Bank ghi nhận thu nhập khoảng 12,9 triệu đồng, trong khi Eximbank có mức thu nhập từ 7 đến 8 triệu đồng.
Những ngân hàng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thường là các ngân hàng nhỏ, như Phương Tây với 5,7 triệu đồng, Phương Đông với 6,3 triệu đồng và HDBank với 6,4 triệu đồng.
Có th ể thấy thu nhập bình quân đầu người của nhóm ngân hàng l ớn gấp 2 - 3 lần nhóm ngân hàng nh ỏ.
Thu nhập của nhân viên ở các ậtp đoàn - t ổng công ty
Vào năm 2011, thu nhập bình quân đầu người/tháng của một số tập đoàn lớn tại Việt Nam được ghi nhận như sau: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PVN) đạt 16,2 triệu đồng, Tổng công ty Rượu Bia Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) có 9,7 triệu đồng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là 8,6 triệu đồng, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) đạt 7,7 triệu đồng, và Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) với 3,9 triệu đồng.
Bài viết chỉ ra sự chênh lệch đáng kể về thu nhập giữa các tập đoàn, với PVN có mức thu nhập gấp hơn 4 lần Vinatex và hơn 2 lần TKV Trong nội bộ một tập đoàn, như PVN, sự khác biệt còn rõ rệt hơn, khi phải chi trả cho nhiều chuyên gia, bao gồm cả chuyên gia nước ngoài với mức lương lên đến 40.000 - 50.000 USD/tháng, dẫn đến thu nhập bình quân cao Ví dụ, EVN cho thấy thu nhập bình quân của khối văn phòng gần 30 triệu đồng/tháng, trong khi khối phân phối điện chỉ đạt 7,9 triệu đồng/tháng Đặc biệt, một số lãnh đạo tại các tập đoàn nhà nước nhận lương từ 70 - 80 triệu đồng/tháng, vượt mức quy định của Nhà nước là 50 triệu đồng/tháng, gây bức xúc trong dư luận.
Theo thống kê, thu nhập bình quân đầu người tại một số tổng công ty như sau: Tổng công ty Thép đạt 7,6 triệu đồng, Tổng công ty Hóa chất đạt 7,0 triệu đồng, và Tổng công ty Công nghiệp dầu thực vật đạt 6,9 triệu đồng.
Khối sản xuất kinh doanh nói chung đạt 5,7 triệu đồng/người/tháng.
So với mức thu nhập trung bình toàn quốc là 2,16 triệu đồng/người/tháng, thu nhập trong khối ngân hàng và tập đoàn - tổng công ty cao gấp 2 đến 8 lần Sự chênh lệch này còn rõ rệt hơn khi so sánh giữa người có thu nhập cao nhất và người có thu nhập thấp nhất, với số liệu cho thấy mức chênh lệch này rất đáng kể.
Thu nhập của công ch ức - viên chức khối hành chính s ự nghiệp
Thu nhập bình quân đầu người trong khối hành chính sự nghiệp có sự chênh lệch lớn giữa các ngành nghề Cụ thể, các trường đại học và cao đẳng có mức thu nhập từ 3,5 - 8,5 triệu đồng/người/tháng, trong khi các trường mẫu giáo mầm non chỉ đạt từ 1,2 - 2,4 triệu đồng/người/tháng Đối với các bệnh viện, bệnh viện tuyến trung ương có thu nhập từ 1,8 - 8 triệu đồng/người/tháng, còn bệnh viện tuyến địa phương dao động từ 1,4 - 4 triệu đồng/người/tháng Các viện nghiên cứu đạt mức thu nhập từ 2,5 - 7 triệu đồng/tháng.
Nguồn: Hoa Lê,Thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các ầtng lớp dân c ư, Tạp chí
CIEM, Trung tâm Thông tin – T ư liệu 25
Chỉ số Gini Index tại Việt Nam hiện đạt mức 0,4, cho thấy phân bố thu nhập vẫn ở mức an toàn theo đánh giá của các tổ chức quốc tế Mặc dù đời sống người dân đã được cải thiện và tỷ lệ nghèo giảm, chỉ số Gini vẫn cao và có xu hướng tăng qua các năm, từ 0,423 vào năm 2004 lên 0,425 vào năm 2006 Hệ số Gini cao phản ánh sự phân hóa thu nhập và sự chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư So với các quốc gia khác, Việt Nam có mức chênh lệch thu nhập tương đối cao, với dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng các nước có thu nhập thấp và trung bình có hệ số Gini dao động từ 0,378 đến 0,550 Điều này cho thấy sự gia tăng chênh lệch thu nhập tại Việt Nam trong những năm gần đây là một vấn đề đáng lưu tâm.
Kinh nghiệm của Trung Quốc về giảm chênh ệlch thu nhập, thu hẹp được khoảng cách
Chênh ệlch thu nhập thành th ị - nông thôn: M ột quan sát trực diện
Biểu đồ 1 Chênhệlch thu nhập giữa thành th ị và nông thôn Trung Qu ốc
Tỉ lệ chênh l ệch thu nhập danh nghĩa Tỉ lệ chênh l ệch thu nhập thực tế
Nguồn : Tổng hợp từ Niên giám ốthng kê Trung Quốc năm 2000 và n ăm
11 Hệ số Gini được sử dụng để đánh giá v ề mức độ bất bình đẳng thu nhập Trong đó, 0 < Hệ số Gini