1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM

54 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giảm Khoảng Cách Chênh Lệch Thu Nhập To Reduce Income Gap In Vietnam
Trường học Viện Nc Quản Lý Kinh Tế Tw
Thể loại thesis
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 54
Dung lượng 619,13 KB

Cấu trúc

  • I. Tình hình chênh lệch thu nhập hiện nay ở Việt Nam (10)
    • I.1. Chênh lệch thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất (12)
    • I.2. Giữa nông thôn và thành phố (16)
    • I.3. Giữa các thành phố và vùng miền (18)
    • I.4. Chênh lệch thu nhập giữa ngành kinh tế (23)
  • II. Kinh nghiệm của Trung Quốc về giảm chênh lệch thu nhập, thu hẹp được khoảng cách (0)
    • II.1. Chênh lệch thu nhập thành thị - nông thôn: Một quan sát trực diện (27)
    • II.2. Chênh lệch thu nhập thành thị - nông thôn: Hậu quả của những chính sách phát triển sai lầm (29)
    • II.3. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội hướng về thành thị (30)
    • II.4. Vai trò của chính phủ trong việc tái phân phối của cải xã hội (32)
    • II.5. Một số kết luận (34)
  • III. Chủ trương và biện pháp của Đảng và nhà nước Việt Nam nhằm giảm chênh lệch thu nhập (0)
  • VI. Kết quả thực hiện và kiến nghị cho những năm tới (39)
    • IV.1. Kết quả thực hiện giảm chênh lệch thu nhập (39)
    • IV.2. Kiến nghị cho những năm tới (43)
      • IV.2.1. Những nhược điểm cần giải quyết (43)
      • IV.2.2. Kiến nghị cho những năm tới (48)

Nội dung

Tình hình chênh lệch thu nhập hiện nay ở Việt Nam

Chênh lệch thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất

Trong bối cảnh tăng trưởng đầu tư và kinh tế gần đây, khoảng cách thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất đang ngày càng gia tăng Sự chênh lệch này được thể hiện rõ qua bảng 1 dưới đây.

Bảng 1: Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập

Thu nhập bình quân đầu người / tháng theo giá thực tế (nghìn đồng)

Chênh lệch thu nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất (lần)

Nhóm thu nhập cao nhất

Nhóm thu nhập thấp nhất

Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình các năm, Tổng cục thống kê.

Theo số liệu từ bảng 1, chênh lệch thu nhập giữa nhóm ngũ phân nghèo nhất và nhóm ngũ phân giàu nhất đã liên tục gia tăng Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2008 và 2008-2010, khoảng cách này đã tăng mạnh hơn so với các giai đoạn trước đó.

So sánh cơ cấu nguồn thu nhập giữa nhóm ngũ phân giàu nhất và nhóm ngũ phân nghèo nhất cho thấy sự chênh lệch đáng kể, như được thể hiện trong Bảng 2 dưới đây.

Theo điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010 của Tổng cục Thống kê, thu nhập của hộ dân cư chủ yếu tăng từ tiền lương, tiền công và công việc tự làm, với tỷ trọng thu từ tiền lương chiếm 44,9% Cơ cấu thu nhập đã có sự chuyển biến đáng kể, trong đó thu từ dịch vụ và tiền lương tăng lên, trong khi thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm Sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất cũng rõ rệt, với nhóm 5 có hơn 46% thu nhập từ tiền lương, trong khi nhóm 1 chủ yếu dựa vào nông nghiệp (47%) Mặc dù thu nhập bình quân tăng, nhóm thu nhập thấp lại có tốc độ tăng chậm hơn, với tốc độ tăng thu nhập của nhóm 1 từ 2002-2010 chỉ đạt 3,4 lần, thấp hơn so với nhóm 4 và 5 (3,9 đến 4 lần), dẫn đến sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo.

5 Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2010, Tổng cục Thống kê.

Bảng 2 Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo nguồn thu của nhóm ngũ phân giàu nhất và nhóm nghèo nhất

Xây dựng Dịch vụ Khác

Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ

(nghìn (nghìn (nghìn % (nghìn đồng)

% % % đồng) đồng) đồng) đồng) đồng) đồng) đồng) đồng)

Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2010, Tổng cục Thống kê.

Tình trạng chênh lệch thu nhập ở Việt Nam đang gia tăng đáng lo ngại, với chênh lệch tuyệt đối ngày càng lớn Cụ thể, vào năm 1995, thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình giàu nhất gấp 7 lần hộ nghèo nhất, nhưng đến năm 2010, tỷ lệ này đã tăng lên 9,2 lần, dẫn đến hệ số Gini tăng từ 0,42 năm 2004 lên 0,43 năm 2010 Điều này cho thấy chênh lệch thu nhập tuyệt đối đang tăng nhanh Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự chênh lệch này không chỉ là hiện tượng người giàu giàu thêm, mà người giàu đang trở nên giàu nhanh hơn người nghèo, mặc dù thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cũng đã tăng và tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh trong thời gian qua.

Bảng 3 cho thấy sự chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất tại Việt Nam cao hơn nhiều nước châu Á, điều này dấy lên lo ngại về sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong thời gian qua.

Bảng 3 Khoảng cách giàu nghèo của Việt Nam và một số nước khác

(năm điều tra khác nhau giữa các nước)

Khoảng cách thu nhập của 20%

Nước Năm điều tra nghèo nhất so với 20% giàu nhất

Nguồn: Báo cáo phát triển con người 2008, UNDP.

6 Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, 2010.

Tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm nhanh từ 58,1% năm 1993 xuống còn 16% năm 2006.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 15

Giữa nông thôn và thành phố

Xem xét thu nhập theo vùng kinh tế, các thành phố lớn và khu công nghiệp phát triển thường có mức thu nhập cao hơn so với các khu vực khác.

Một điểm đáng chú ý là mức thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tăng từ

Từ năm 1999 đến 2008, mức thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị đã tăng từ 517 nghìn đồng lên 1.605 nghìn đồng, trong khi ở nông thôn, mức thu nhập cũng tăng từ 225 nghìn đồng lên 762 nghìn đồng Đến năm 2010, chênh lệch thu nhập giữa hai khu vực này vẫn rõ rệt, với thu nhập bình quân đầu người ở thành thị cao gấp hơn 2 lần so với nông thôn, minh chứng cho sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực.

Bảng 4 Thu nhập bình quân đầu người/ tháng thành thị - nông thôn từ

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010

Chênh lệch giàu nghèo không chỉ diễn ra giữa đô thị và nông thôn mà còn gia tăng ngay trong các vùng quê Theo kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2010 tại 12 tỉnh của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, sự phân hóa giàu nghèo trong các gia đình nông thôn ngày càng trở nên rõ rệt.

Bảng 5 chỉ ra rằng chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn là rõ rệt, với mức thu nhập ở thành phố cao hơn Nguyên nhân của hiện tượng này là do ở những khu vực có xuất phát điểm thấp, khoảng cách về giàu nghèo thường không lớn như ở những vùng có xuất phát điểm cao hơn.

Bảng 5 Chênh lệch theo khu vực ở Việt Nam

Hệ số Gini theo thu nhập

Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình.

Tốc độ gia tăng chênh lệch thu nhập ở khu vực nông thôn cao hơn so với khu vực thành thị, chủ yếu do người dân không có đất và mất đất Tỷ lệ hộ nông thôn không có đất ở Đông Nam Bộ tăng từ 17% năm 1993 lên 40% năm 2004, dẫn đến việc nông dân mất nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp.

Giá đất đai tăng mạnh và tình trạng mất đất của nông dân đã làm gia tăng chênh lệch thu nhập ở khu vực nông thôn Bên cạnh đó, hiện tượng di cư tìm việc làm từ nông thôn ra thành phố cũng góp phần vào sự chênh lệch này, khi những hộ có người di cư thường có thu nhập và chi tiêu cao hơn so với những hộ không có người di cư.

Tỉ lệ nghèo ở thành phố giảm nhanh hơn so với nông thôn, chỉ còn gần một phần ba trong khi nông thôn chỉ giảm hơn hai lần trong cùng thời kỳ Cụ thể, vào năm 2008, tỉ lệ nghèo ở thành thị là 3,3%, chỉ bằng 1/6 tỉ lệ nghèo ở nông thôn, đạt 8,7%.

Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước Bài viết phân tích nguyên nhân và hệ quả của tình trạng này, đồng thời đưa ra những khuyến nghị chính sách nhằm giảm thiểu bất bình đẳng Các giải pháp bao gồm cải cách thuế, nâng cao chất lượng giáo dục và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân Việc thực hiện những chính sách này sẽ góp phần thúc đẩy sự công bằng trong phân phối thu nhập, từ đó giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 17

Bảng 6 Tỷ lệ người nghèo chung theo các vùng ở Việt Nam từ 1998-2008 (%)

TT Tỷ lệ hộ nghèo 1998

Trung du, miền núi phía, Bắc 32,3 31,6

6 Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4

24,1 2,3 Đông Nam bộ Đồng bằng sông Cửu 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3 long

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010

Giữa các thành phố và vùng miền

I.3.1 Thực trạng chênh lệch thu nhập giữa các thành phố và vùng miền

Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê năm 2011, chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam đã lên tới 9,2 lần Cụ thể, thu nhập bình quân của người dân Việt Nam đạt 1,387 triệu đồng/người/tháng, trong khi nhóm nghèo nhất chỉ kiếm được 369.000 đồng mỗi tháng Ngược lại, thu nhập trung bình của nhóm giàu nhất lên tới hơn 3,4 triệu đồng Khoảng cách này đang ngày càng gia tăng.

Chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền đã gây ra nhiều hệ lụy, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của cả nước Theo đánh giá mức sống hộ gia đình năm 2010, thu nhập bình quân đầu người hàng tháng tăng so với năm 2008, nhưng vẫn tồn tại sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng.

Theo Tổng cục Thống kê năm 2011, khu vực Đông Nam Bộ có thu nhập bình quân đầu người cao nhất, gấp 2,5 lần so với khu vực có thu nhập thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc.

Bảng 7 Thu nhập bình quân đầu người theo vùng 1999-2010 (nghìn đồng)

Duyên hải Nam 305,8 trung bộ

Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2011

Mặc dù Việt Nam đã ưu tiên phân bổ vốn cho các tỉnh nghèo nhằm thúc đẩy sự phát triển đồng đều, nhưng vẫn tồn tại sự chênh lệch đáng kể trong tốc độ phát triển giữa các khu vực, dẫn đến sự hình thành các "túi nghèo" Những "túi nghèo" này chủ yếu tập trung ở các vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Điện Biên (trên 50%), Lai Châu, Hà Giang (trên 40%), và các tỉnh như Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30%) Bên cạnh đó, tình trạng tái nghèo cũng đã xuất hiện tại một số địa phương.

Sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các thành phố trở nên rõ rệt, đặc biệt qua số liệu của UBND Thành phố Hà Nội Năm 2010, GDP của Hà Nội đạt 9-10%, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 36,5-37,5 triệu đồng (tương đương 1950 USD) Đến năm 2011, GDP tăng lên 10,1% so với năm trước, trong khi thu nhập bình quân đầu người đạt trên 1850 USD.

10 Vi ện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, 2010.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 19

Cục Thống kê TP.Hồ Chí Minh vừa công bố rằng GDP năm 2011 tăng 10,3% so với năm 2010 Mặc dù nền kinh tế gặp khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vẫn đạt hơn 60 triệu đồng/năm, tương đương khoảng 3.000 USD.

Trong năm 2011, thành phố Cần Thơ đã đạt mức tăng trưởng kinh tế là 4,64% Thu nhập bình quân đầu người của thành phố theo giá hiện hành là 48,9

1 triệu đồng/năm, tương đương 2.350 USD, tăng 332 USD so với năm 2010.

Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nổi tiếng với ngành dầu mỏ, đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người 5.800 USD vào năm 2010, cao gấp gần 5 lần mức trung bình cả nước và gần gấp đôi so với TP.Hồ Chí Minh Đặc biệt, TP.Hồ Chí Minh chỉ đạt thu nhập bình quân 4.800 USD vào năm 2015, cho thấy sự phát triển vượt bậc của Bà Rịa - Vũng Tàu trong bối cảnh kinh tế Việt Nam.

70 triệu đồng (khoảng 3.300 USD) thì Bà Rịa - Vũng Tàu đã mạnh dạn đặt chỉ tiêu tới 11.500 USD, nếu tính cả dầu thô là 15.000 USD.

Trong khi đó , ở các tỉnh nghèo, kinh tế kém phát triển, thu nhập rất thấp.

Năm 2011, GDP của tỉnh Nam Định tăng 12,1% so với cùng kỳ, với thu nhập bình quân đầu người đạt 19,2 triệu đồng/năm Tỉnh Bắc Cạn, một trong những tỉnh nghèo nhất Việt Nam, cũng ghi nhận sự tăng trưởng GDP 13% so với năm 2010, đưa thu nhập bình quân đầu người lên 14,6 triệu đồng, tăng 2,7 triệu đồng so với năm trước Ngược lại, tỉnh Quảng Ngãi có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, chưa đến 9 triệu đồng/năm, trong khi tỉnh Hà Giang còn thấp hơn, với mức thu nhập chưa đến 6 triệu đồng/năm, nhiều huyện nghèo chỉ đạt khoảng 3 triệu đồng/người/năm.

Các con số trên phản ánh rõ nét sự chênh lệch trong đời sống kinh tế giữa các vùng miền ở Việt Nam Những tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu tận dụng được lợi thế về cửa khẩu, tài nguyên và cảng biển, trong khi các tỉnh vùng cao như Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và Bắc Kạn lại thiếu tiềm lực phát triển Sự khác biệt này thể hiện rõ qua mức thu nhập bình quân đầu người, với thành phố lớn cao gấp khoảng 10 lần so với các tỉnh nghèo Đây là vấn đề mà Nhà nước đang nỗ lực khắc phục, nếu không, khoảng cách giàu nghèo sẽ gia tăng, gây ra những hệ lụy khó lường cho nền kinh tế và chính trị.

Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn nhất Việt Nam, với tổng sản phẩm nội địa cao nhất và thu nhập bình quân đầu người đứng ở tốp đầu Mặc dù mức tăng trưởng GDP của cả hai thành phố năm 2011 đều trên 10%, nhưng tiềm lực kinh tế của TP.Hồ Chí Minh gấp hơn 6 lần so với Hà Nội Cụ thể, GDP của Hà Nội chỉ ước đạt 15,6% GDP của TP.Hồ Chí Minh, trong khi thu nhập bình quân đầu người của TP.Hồ Chí Minh cao hơn mức trung bình cả nước khoảng 2,5 lần, còn Hà Nội chỉ cao hơn 1,4 lần Khoảng cách này đặt ra thách thức lớn cho Hà Nội trong việc nâng cao vị thế kinh tế.

I.3.2 Các y ế u t ố mang đế n chênh l ệ ch thu nh ậ p gi ữ a các vùng

Chênh lệch về phân phối thu nhập giữa các vùng sinh thái ở Việt Nam xuất phát từ điều kiện thiên nhiên, lịch sử và văn hóa, cùng với mức độ đầu tư vào hạ tầng trong quá khứ.

Điều kiện thiên nhiên tại Việt Nam được thể hiện rõ qua sự hiện diện của hai đồng bằng lớn: Sông Hồng ở miền Bắc và Sông Cửu Long ở miền Nam, cùng với vùng duyên hải miền Trung Đồng bằng Sông Hồng tạo ra một vùng trồng lúa phì nhiêu xung quanh Hà Nội, trong khi Sông Cửu Long cung cấp sản lượng lúa cho 12 tỉnh phía Nam, giúp nâng cao mức sống của cư dân Ngược lại, dân cư ở các tỉnh miền núi giáp biên giới Trung Quốc chủ yếu sống dựa vào lâm nghiệp và chăn nuôi, dẫn đến thu nhập thấp hơn Tại miền Trung, người dân phụ thuộc vào ngành thủy sản do hạn chế về đất đai Bên cạnh đó, yếu tố lịch sử cũng ảnh hưởng đến thu nhập các vùng, khi Việt Nam thời Pháp thuộc được chia thành ba khu vực với hệ thống hành chính khác nhau Sài Gòn và Nam Bộ được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tốt hơn, như đường xá, sân bay và cảng biển, nhờ vào sự quản lý trực tiếp của chính quyền Pháp.

Trong thời kỳ này, CIEM và Trung tâm Thông tin – Tư liệu 21 đã chú trọng vào việc phát triển vùng Đà Lạt như một điểm nghỉ dưỡng và mở rộng các đồn điền cao su tại Đông Nam Bộ Đồng thời, Hải Phòng ở Bắc Bộ cũng được cải thiện để trở thành một thương cảng quốc tế với trang thiết bị hiện đại Những đầu tư này đã góp phần tạo ra sự chênh lệch thu nhập rõ rệt giữa các vùng miền.

Cuộc chiến tranh 1965-1975 đã để lại nhiều di chứng trên lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là sự hiện diện quân sự lớn của Mỹ tại Đà Nẵng và sự xây dựng cảng Cam Ranh Trong tương lai, Đà Nẵng và cảng Cam Ranh được kỳ vọng sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Miền Trung.

Sự hiện diện của người dân tộc tại một số địa phương là yếu tố quan trọng giải thích sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng Mặc dù người Kinh chiếm khoảng 85% tổng dân số Việt Nam và đã được đồng hóa vào xã hội, nhưng sự tập trung của người dân tộc tại các khu vực như Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc đã tạo ra những đặc điểm địa phương riêng biệt Ở Tây Nguyên, sự phân bố thu nhập thể hiện mô hình khác biệt với hệ số Gini lớn, trong khi đó, tỷ lệ người dân tộc cao cùng với điều kiện thiên nhiên khó khăn ở Tây Bắc và Đông Bắc góp phần vào mức thu nhập tương đối thấp của các vùng này.

Chênh lệch thu nhập giữa ngành kinh tế

Trong thời gian gần đây, chênh lệch thu nhập giữa các ngành kinh tế cũng là một vấn đề nổi cộm cần xem xét.

Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tiền lương trung bình của người lao động năm 2009 đạt khoảng 2,84 triệu đồng mỗi tháng Cụ thể, doanh nghiệp Nhà nước có mức lương 3,35 triệu đồng, trong khi Tổng công ty hạng đặc biệt và công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế Nhà nước đạt 5,9 triệu đồng Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ước đạt 2,65 triệu đồng, còn doanh nghiệp dân doanh có mức lương trung bình là 2,05 triệu đồng.

Theo thống kê của Bộ LĐ,TB và XH công bố vào tháng 10/2011, tiền lương bình quân của người lao động năm 2010 tiếp tục ổn định và có xu hướng tăng Cụ thể, tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp đạt 3,2 triệu đồng/người/tháng, tăng 10,3% so với năm 2009 Doanh nghiệp nhà nước có mức lương bình quân là 3,8 triệu đồng, tăng 8,6%; doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nhà nước đạt 3,3 triệu đồng/người/tháng, tăng 10,0%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 3 triệu đồng, tăng 11,1%; và doanh nghiệp dân doanh là 2,7 triệu đồng/người/tháng, tăng 12,5% so với năm 2009.

Trong năm 2010, ngành mỏ luyện kim có mức lương cao nhất tại Việt Nam với thu nhập bình quân 9,2 triệu đồng/người/tháng Ngành ngân hàng đứng thứ hai với 7,6 triệu đồng/người/tháng, theo sau là ngành dược với 7 triệu đồng/người/tháng, và ngành điện tử viễn thông với 5,5 triệu đồng/người/tháng.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 23

Theo thống kê của Bộ LĐ, TB và XH năm 2010, nhân viên ngành dệt may, da giày và thực phẩm đóng góp hàng tỉ USD vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm, nhưng vẫn có mức lương thấp hơn so với các ngành như mỏ, luyện kim, ngân hàng và dược.

010 xuất khẩu gần 11,2 tỉ USD), nhưng mức lương trung bình lại chỉ được từ 2,1 2,3 triệu/ người/ tháng, đứng ở top cuối.

Mức lương trung bình của nhân viên trong các ngành hàng đầu thấp hơn từ 2,6 đến hơn 4 lần so với các ngành khác Nhiều chuyên gia nhận định rằng lương của nhân viên trong ngành giáo dục cũng không cao, với nhiều giáo viên có thâm niên hàng chục năm chỉ nhận khoảng 3 - 4 triệu đồng mỗi tháng Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các kỹ sư và bác sĩ có nhiều năm kinh nghiệm, khi họ cũng chỉ nhận mức lương tương đương.

Nhiều chuyên gia cho rằng sự khác biệt giữa các nghề và vị trí lao động là nguyên nhân chính gây ra chênh lệch tiền lương Lao động có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng quản lý tốt thường nhận được mức lương cao hơn nhiều so với lao động giản đơn Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn tồn tại những bất cập trong cấu trúc kinh tế hiện tại, cùng với sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, dẫn đến sự chênh lệch thu nhập giữa những người có cùng trình độ nhưng làm việc trong các ngành khác nhau.

Hộp 1: Thu nhập của nhân viên ngành ngân hàng

Theo số liệu thống kê năm 2011, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) dẫn đầu ngành ngân hàng với thu nhập bình quân đầu người đạt 22,4 triệu đồng/tháng, tiếp theo là Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) với 20,76 triệu đồng/tháng Các ngân hàng khác có thu nhập bình quân như Sacombank khoảng 14,7 triệu đồng, ACB khoảng 16 triệu đồng, Bảo Việt Bank đạt 12,9 triệu đồng, và Eximbank từ 7 đến 8 triệu đồng.

Các ngân hàng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất chủ yếu là những ngân hàng nhỏ, bao gồm Phương Tây với 5,7 triệu đồng, Phương Đông với 6,3 triệu đồng và HDBank với 6,4 triệu đồng.

Có thể thấy thu nhập bình quân đầu người của nhóm ngân hàng lớn gấp 2 - 3 lần nhóm ngân hàng nhỏ.

Thu nhập của nhân viên ở các tập đoàn - tổng công ty

Năm 2011, thu nhập bình quân đầu người/tháng của một số tập đoàn lớn tại Việt Nam đã có sự chênh lệch rõ rệt, trong đó Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PVN) dẫn đầu với 16,2 triệu đồng Tiếp theo là Tổng công ty Rượu Bia Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) với 9,7 triệu đồng, và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) với 8,6 triệu đồng Các tập đoàn khác như Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) có thu nhập bình quân lần lượt là 7,7 triệu đồng và 3,9 triệu đồng.

Số liệu cho thấy sự chênh lệch thu nhập lớn giữa các tập đoàn, như PVN có thu nhập cao gấp 4 lần Vinatex và hơn 2 lần TKV Trong một tập đoàn, sự khác biệt cũng rõ rệt, ví dụ như tại PVN, mức lương cho chuyên gia nước ngoài lên đến 40.000 - 50.000 USD/tháng, dẫn đến thu nhập bình quân cao EVN minh chứng cho sự chênh lệch này khi thu nhập bình quân của khối văn phòng gần 30 triệu đồng/tháng, trong khi khối phân phối điện chỉ đạt 7,9 triệu đồng/tháng Đặc biệt, một số lãnh đạo tại các tập đoàn nhà nước nhận lương lên tới 70 - 80 triệu đồng/tháng, vượt mức quy định của Nhà nước là 50 triệu đồng/tháng, gây bức xúc trong dư luận.

Theo thống kê, thu nhập bình quân đầu người tại một số tổng công ty hiện nay như sau: Tổng công ty Thép đạt 7,6 triệu đồng, Tổng công ty Hóa chất đạt 7,0 triệu đồng, và Tổng công ty Công nghiệp dầu thực vật đạt 6,9 triệu đồng.

Khối sản xuất kinh doanh nói chung đạt 5,7 triệu đồng/người/tháng.

So với mức thu nhập trung bình toàn quốc là 2,16 triệu đồng/người/tháng, thu nhập tại các ngân hàng và tập đoàn lớn cao gấp 2 đến 8 lần Nếu so sánh giữa người có thu nhập cao nhất và thấp nhất, chênh lệch này còn đáng kinh ngạc hơn.

Thu nhập của công chức - viên chức khối hành chính sự nghiệp

Thu nhập bình quân đầu người trong khối hành chính sự nghiệp thay đổi theo từng ngành nghề Cụ thể, các trường đại học và cao đẳng có mức thu nhập từ 3,5 đến 8,5 triệu đồng/người/tháng, trong khi các trường mẫu giáo mầm non chỉ đạt từ 1,2 đến 2,4 triệu đồng/người/tháng Các bệnh viện tuyến trung ương có mức thu nhập dao động từ 1,8 đến 8 triệu đồng/người/tháng, trong khi bệnh viện tuyến địa phương đạt từ 1,4 đến 4 triệu đồng/người/tháng Đối với các viện nghiên cứu, thu nhập bình quân từ 2,5 đến 7 triệu đồng/tháng.

Nguồn: Hoa Lê, Thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, Tạp chí

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 25

Chỉ số Gini Index của Việt Nam hiện đạt 0,4, cho thấy phân bố thu nhập vẫn ở mức an toàn theo đánh giá quốc tế Mặc dù đời sống người dân cải thiện và tỷ lệ nghèo giảm, chỉ số Gini vẫn cao và có xu hướng tăng qua các năm, từ 0,423 năm 2004 lên 0,425 năm 2006 Hệ số Gini cao phản ánh sự phân hóa thu nhập và khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư So với các quốc gia khác, chênh lệch thu nhập ở Việt Nam tương đối cao và đang gia tăng trong những năm gần đây.

Để đạt được phát triển bền vững, cần phải gắn kết tăng trưởng kinh tế với an sinh xã hội và công bằng Các chỉ số về chênh lệch giàu nghèo cho thấy xã hội được phân thành năm nhóm thu nhập: 20% rất cao, 20% khá, 20% trung bình, và 20% nghèo Nếu không có giải pháp hỗ trợ nhóm 20% nghèo thông qua các chương trình an sinh xã hội, giảm nghèo, và ưu tiên cho các vùng khó khăn, cũng như tái cơ cấu kinh tế hợp lý để thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và ngành, mức chênh lệch giàu nghèo sẽ ngày càng gia tăng.

I Kinh nghiệm của Trung Quốc về giảm chênh lệch thu nhập, thu hẹp được khoảng cách

Kinh nghiệm của Trung Quốc về giảm chênh lệch thu nhập, thu hẹp được khoảng cách

Chênh lệch thu nhập thành thị - nông thôn: Một quan sát trực diện

Biểu đồ 1 Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn Trung Quốc

Tỉ lệ chênh lệch thu nhập danh nghĩa Tỉ lệ chênh lệch thu nhập thực tế

Nguồn : Tổng hợp từ Niên giám thống kê Trung Quốc năm 2000 và năm

Hệ số Gini là một chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ bất bình đẳng thu nhập trong xã hội, với giá trị nằm trong khoảng 0 và 1 Khi Hệ số Gini gần đạt giá trị 1, điều này cho thấy mức độ bất bình đẳng thu nhập gia tăng Hiện tại, Hệ số Gini ở mức 0.45, cho thấy tình hình bất bình đẳng thu nhập đang ở mức đáng chú ý.

1 giới coi là ngưỡng bất bình đẳng nghiêm trọng (red line) - PST.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 27

Biểu đồ 1 cho thấy sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn sau khi tiến hành chuyển đổi Mức chênh lệch thu nhập này đã tăng từ 0.1629 vào năm 1986 lên 0.2824 vào năm 2003 Đồng thời, tỷ lệ thu nhập danh nghĩa ở khu vực thành thị đã tăng 150% so với khu vực nông thôn trong cùng khoảng thời gian.

Chênh lệch thu nhập thành thị - nông thôn Trung Quốc đã trải qua 4 thời kì:

Từ 1978 đến 1985, chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn đã giảm 40.35%, chủ yếu nhờ vào các cải cách nông nghiệp tại Trung Quốc Chế độ khoán đến nông hộ và việc nâng cao giá nông sản đã làm tăng thu nhập cho nông dân, đóng góp 16.29% vào sự giảm chênh lệch Tuy nhiên, sự thay đổi trong tỉ trọng số nhân khẩu giữa hai khu vực mới là yếu tố quyết định, giúp giảm chênh lệch lên đến 38.83%.

Giai đoạn 1985 – 1994 chứng kiến sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn tại Trung Quốc Trong thời kỳ này, đất nước bắt đầu thực hiện cải cách khu vực thành thị, bao gồm cải cách doanh nghiệp nhà nước và thể chế kinh tế Nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng này là do tỉ lệ hệ số phân phối tăng mạnh, đạt 39.02%, làm mức chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn tăng 25.8% Đặc biệt, hệ số phân phối trong khu vực nông nghiệp đã giảm xuống còn 0.87.

985 xuống còn 0.7 năm 1994, còn hệ số của khu vực phi nông nghiệp lại tăng

(3) Giai đoạn 1994 – 1997: sau khi chênh lệch thành thị - nông thôn trải qua

0 năm tăng liên tiếp đã đi vào giai đoạn thu hẹp, nhưng thời gian cũng rất ngắn.

Giai đoạn 1997 – 2003 chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, từ 0.83 năm 1997 lên 3.32 năm 2003 Nguyên nhân chủ yếu là do tỉ lệ hệ số phân phối có những biến động đáng kể, với tổng mức tăng 83.99% Cụ thể, hệ số phân phối trong khu vực nông nghiệp giảm từ 0.74 xuống 0.55, trong khi khu vực phi nông nghiệp tăng từ 0.38 lên 0.53.

Chênh lệch thu nhập thành thị - nông thôn: Hậu quả của những chính sách phát triển sai lầm

Mức chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn tại Trung Quốc đang gia tăng, và một số nhà nghiên cứu cho rằng nguyên nhân chính là do các cải cách thị trường hóa Họ cho rằng kinh tế thị trường đã dẫn đến sự bần cùng hóa một bộ phận lớn cư dân và các khu vực phi trung tâm Do đó, họ kêu gọi chấm dứt các cải cách này và khôi phục lại hệ thống kinh tế kế hoạch cùng phương thức phân phối bình quân mà Trung Quốc từng áp dụng Tuy nhiên, cần xem xét kỹ lưỡng nguyên nhân thực sự của tình trạng chênh lệch này.

Tốc độ phát triển không đồng đều giữa thành thị và nông thôn, dưới ảnh hưởng của các chính sách cải cách kinh tế theo hướng thị trường, đã dẫn đến chênh lệch thu nhập đáng kể Năm 2001, lao động nông thôn chiếm 50% tổng lực lượng lao động nhưng chỉ tạo ra 15% GDP, trong khi thu nhập bình quân của cư dân thành phố cao gấp ba lần so với cư dân nông thôn Cải cách là quá trình tái cấu trúc lợi ích xã hội, dẫn đến việc một số nhóm được hưởng lợi trong khi một số khác thiệt hại, tạo ra sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi Tuy nhiên, chênh lệch thu nhập giữa thành phố và nông thôn ở Trung Quốc trong giai đoạn chuyển đổi không chỉ do các chính sách kinh tế hiện tại mà còn bị ảnh hưởng bởi hệ thống chính sách trước đó Các nguyên nhân chính bao gồm việc ưu tiên phát triển thành phố, dẫn đến hy sinh lợi ích của nông thôn, nông dân và nông nghiệp.

Sự thiên lệch của chính phủ trong chính sách tái phân phối của cải xã hội; (3) Sự tập trung quá mức cho việc phát triển kinh tế.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 29

Chính sách phát triển kinh tế - xã hội hướng về thành thị

Sau khi thành lập, Trung Quốc đối mặt với nhiều thách thức ngoại giao, đặc biệt là mối lo ngại về sự đe dọa từ Mỹ, nhất là khi Mỹ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên Quan hệ Trung - Xô cũng căng thẳng, buộc Mao Trạch Đông phải chỉ đạo phát triển tự cấp tự túc để chuẩn bị cho khả năng ứng phó chiến tranh Chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và xây dựng thể chế kinh tế kế hoạch dẫn đến sự hình thành thể chế kinh tế nhị nguyên, với sự tách biệt giữa thành phố và nông thôn Đầu những năm 50, Mao đề xuất xây dựng "nông thôn mới" nhằm giữ chân cư dân nông nghiệp Chiến lược công nghiệp hóa chính thức được thiết lập vào tháng 6 năm 1953, với việc thống nhất thu mua và phân phối lương thực Năm 1958, quy định về đăng ký hộ khẩu được thông qua, làm rõ ràng hơn sự phân chia thành thị - nông thôn Chính sách phát triển hướng về thành thị được thực thi thông qua việc kiểm soát sản xuất nông nghiệp, cưỡng bức giao nộp nông sản, và đầu tư vào cơ sở hạ tầng thành phố, tạo ra sự chênh lệch giá cả giữa sản phẩm công nghiệp và nông sản, từ đó "bòn rút" nguồn vốn của nông thôn để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa.

Chính phủ Trung Quốc đã chuyển dịch 543 tỉ Nhân dân tệ từ nông thôn sang thành thị, trong đó khoảng 149,6 tỉ NDT được "rút ruột" thông qua chính sách thuế và dòng tiết kiệm Kể từ năm 1979, trợ giá lương thực cho cư dân thành thị đã tăng mạnh, đặc biệt vào năm 1985, khi chính phủ trợ giá mua thịt cho người dân thành thị lên tới 26,2 tỉ NDT, đồng thời nới lỏng giá thịt.

1998, con số này đạt 71,2 tỉ (Vương Vĩnh Khâm et al., 2006) Kể từ cuối thập niên

0 đến giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, trong sự "bảo vệ" của chế độ hộ khẩu, cư

Dân thành thị tại Trung Quốc được hưởng chế độ phúc lợi vượt trội so với cư dân nông thôn, với các doanh nghiệp nhà nước cung cấp chế độ làm việc suốt đời, nhà ở, trường học, bảo hiểm y tế và xã hội Từ năm 1991 đến 1998, chi tiêu cho an sinh xã hội chiếm 7-8% GDP, trong khi nông thôn chỉ nhận 0.1-0.2%, dẫn đến việc 97% chi phí an sinh xã hội thuộc về dân thành thị, trong khi 70% dân số nông thôn chỉ nhận dưới 3% Về y tế, cư dân thành thị cũng có nhiều ưu đãi hơn, trong khi điều kiện y tế ở nông thôn ngày càng xấu đi từ sau năm 1985, dẫn đến tỷ lệ tự chi trả cho chữa bệnh tăng từ 16% trước năm 1980 lên 87.44% vào năm 1988 Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở nông thôn cũng cao hơn nhiều so với thành phố, với 44.79% so với 21.14% vào năm 1995.

Từ năm 1986 đến 1992, Trung Quốc đối mặt với lạm phát bình quân 8.5%, ảnh hưởng đến cả cư dân thành thị và nông thôn Một trong những nguyên nhân chính gây ra lạm phát là sự gia tăng chi tiêu và đầu tư của chính phủ, chủ yếu tập trung vào các thành phố Đồng thời, chính phủ cũng cung cấp nhiều khoản tín dụng lớn cho doanh nghiệp nhà nước Kết quả là, mặc dù mọi tầng lớp đều chịu tác động của lạm phát, nông dân và cư dân nông thôn lại là những người thiệt thòi nhất, do không nhận được hỗ trợ đáng kể từ chính quyền.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 31

Vai trò của chính phủ trong việc tái phân phối của cải xã hội

Chính sách tập trung ưu tiên cho một số vùng tại Trung Quốc đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đặc biệt là ở 14 thành phố ven biển và 5 đặc khu kinh tế, cùng với sự đóng góp của doanh nhân và trí thức Tuy nhiên, vai trò của chính phủ trong việc tái phân phối của cải xã hội còn hạn chế, khi mà các khoản đầu tư chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh tế mà không hỗ trợ đủ cho các nhóm xã hội yếu thế thông qua hệ thống an sinh xã hội Điều này dẫn đến sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị Mặc dù chi tài chính của Trung Quốc đã tăng gần 20 lần từ năm 1978 đến 2001, tỷ trọng chi công cộng trong GDP lại giảm, cho thấy sự phân bổ tài nguyên không đồng đều Câu hỏi đặt ra là các khoản chi này được phân bổ như thế nào và cho ai?

(1) Các khoản chi sự nghiệp cho cán bộ các ngành thương mại, giao thông vận tải, công nghiệp, chủ yếu tồn tại dưới dạng tiền lương.

Hỗ trợ cho các chi phí sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi và khí tượng nhằm hướng đến đối tượng công nhân và cán bộ nhà nước.

Chi phí cho ba hạng mục khoa học - kỹ thuật và phí sự nghiệp trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học và vệ sinh chủ yếu dành cho đội ngũ trí thức Ba hạng mục khoa học - kỹ thuật do trí thức lãnh đạo, trong khi phí sự nghiệp của ba ngành này chủ yếu là tiền lương cho giới trí thức.

Chi cho việc xây dựng cơ bản, cứu tế và cứu trợ thiên tai ở nông thôn, cùng với phúc lợi xã hội, chủ yếu nhằm hỗ trợ nông dân Các khoản chi này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống và phát triển bền vững cho cộng đồng nông thôn.

(5) Phí quản lí hành chính và chi cho quốc phòng Đối tượng hưởng lợi là tất cả các thành phần trong xã hội.

Gói trợ giá bao gồm hỗ trợ cho lương thực, bông, dầu ăn và các loại thực phẩm cao cấp như thịt, nhằm ổn định giá cả và mang lại lợi ích cho công nhân, trí thức, cán bộ, chủ doanh nghiệp cá thể, nông dân và một số thành phần khác.

Trong các khoản chi trả cho trái phiếu trong nước, sau khi trừ đi phần chi trả cho ngân hàng và doanh nghiệp, tài sản hoặc thu nhập sẽ được phân chia cho cán bộ nhà nước, chủ doanh nghiệp cá thể và trí thức Đây là những đối tượng có thu nhập cao, do đó họ là nhóm người mua trái phiếu chủ yếu.

Hoàn thuế xuất khẩu là một chính sách quan trọng, trong đó các khoản hoàn thuế được phân chia theo tỷ trọng xuất khẩu của các thành phần kinh tế, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và tư nhân Chính sách này không chỉ giúp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện để cán bộ nhà nước và chủ doanh nghiệp tư nhân nâng cao thu nhập cá nhân.

Bù đắp các khoản lỗ cho doanh nghiệp nhà nước phản ánh sự kiểm soát sâu sắc của đội ngũ quản lý, dẫn đến tình trạng "người nội bộ khống chế" Việc báo cáo lợi nhuận hoặc thua lỗ của doanh nghiệp thường bị thao túng, cho thấy trách nhiệm này có thể quy về cán bộ công chức trong bối cảnh hiện tại.

Các khoản chi ngoài dự toán ngân sách của trung ương và địa phương bao gồm chi phúc lợi và chi khen thưởng, được phân hưởng bởi cán bộ và công nhân viên.

Phí thám hiểm địa chất đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường vốn lưu động cho doanh nghiệp và hỗ trợ các hạng mục xây dựng cơ bản của quốc gia, sau khi đã trừ đi khoản đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp Mặc dù các khoản chi này chủ yếu do cán bộ nhà nước quản lý, nhưng tình hình thực tế lại khá phức tạp.

Theo các tiêu chí thống kê, lợi ích của nông dân đã giảm sút đáng kể trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ, từ 47.48% vào năm 1978 xuống chỉ còn 16.93% vào năm 2001 Trong khi đó, lợi ích của công nhân cũng giảm, nhưng mức giảm chỉ khoảng 11%, thấp hơn nhiều so với hơn 30% của nông dân Lợi ích mà trí thức, chủ yếu sống ở thành phố, nhận được cũng không được đề cập rõ ràng.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 33 vẫn giữ nguyên cấu trúc cơ bản, nhưng đã mang lại nhiều lợi ích hơn cho cán bộ nhà nước và chủ doanh nghiệp tư nhân – cá thể.

Sự chênh lệch trong chính sách đã tạo ra sự mất cân bằng trong cơ hội tiếp cận tái phân phối của cải xã hội giữa các giai tầng ở nông thôn và thành thị Cụ thể, các giai tầng sống ở thành thị như công nhân, cán bộ, và chủ doanh nghiệp thường nhận được nhiều ưu đãi và sự chú trọng từ chính phủ hơn so với đông đảo nông dân đang bị hạn chế bởi chế độ hộ khẩu Điều này dẫn đến sự gia tăng chênh lệch về thu nhập giữa cư dân thành thị và nông thôn.

Một số kết luận

1 Thông qua những phân tích nêu trên, có thể nhận thấy sự hình thành và gia tăng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị - nông thôn ở Trung Quốc là kết quả của nhiều chính sách phát triển sai lầm Trong đó, chúng ta nhận thấy chính phủ có trách nhiệm trực tiếp trong những sai lầm đó Nói cách khác, sự chênh lệch giàu nghèo nói chung và chênh lệch giữa thành thị - nông thôn nói riêng không phải là kết quả của tiến trình thị trường hóa Sự can thiệp của chính phủ trong việc hoạch định chính sách phát triển vùng, sự tập trung tối đa cho khu vực thành thị, sự tồn tại dai dẳng của chế độ hộ khẩu biến nông dân trở thành "công dân hạng hai" hay khả năng điều tiết yếu kém trong việc tái phân phối thu nhập v.v mới là những nguyên nhân mang tính "bản chất" nhất của tình trạng phân hóa Vì vậy, phương hướng cơ bản trong việc thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo thành thị - nông thôn cần chú trọng đến việc cải cách thể chế, cải cách phương thức quản lí của chính phủ Đặc biệt, cần hướng những khoản chi chuyển dịch hoặc tiêu dùng của chính phủ vào các hạng mục phi kinh tế (đầu tư cho giáo dục, y tế ở nông thôn, trợ giá cho nông dân, hệ thống phúc lợi v.v ).

2 Cho phép nhân khẩu tự do dịch chuyển, xóa bỏ chế độ hộ khẩu, tạo điều kiện cho cư dân nông thôn định cư và hưởng các chính sách xã hội như cư dân thành thị là bước đi nhỏ nhưng quan trọng và thiết thực để tạo cơ hội bình đẳng cho cư dân nông thôn, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt đối xử thành thị - nông thôn.

3 Giữa trình độ công nghiệp hóa, mức độ đô thị hóa và chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị với nông thôn có tồn tại mối liên hệ mật thiết với nhau Trong thể chế kinh tế nhị nguyên như ở Trung Quốc, việc tạo điều kiện cho lao động nông nghiệp chuyển dịch sang các lĩnh vực phi nông nghiệp nhưng không cho phép họ định cư ở thành phố thì không đủ để thu hẹp chênh lệch giàu nghèo giữa hai khu vực này Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa có tác dụng ngược nhau trong việc thu hẹp khoảng cách chênh lệch Quá trình nào có vai trò ra sao được quyết định bởi mức thu nhập của nông dân đổ về thành phố làm việc Nếu mức lương này thấp hơn mức bình quân của cư dân thành thị thì quá trình công nghiệp hóa sẽ làm chênh lệch giàu nghèo thêm trầm trọng, còn đô thị hóa sẽ giúp giảm thiểu sự chênh lệch này Nhìn chung, việc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa có lợi cho việc Trung Quốc thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.

II Chủ trương và biện pháp của Đảng và nhà nước Việt Nam nhằm giảm chênh lệch thu nhập

Theo báo cáo "Rủi ro toàn cầu năm 2012" của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), chênh lệch thu nhập và mất cân đối tài chính là hai rủi ro lớn nhất đe dọa tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trong đó Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng Ngân hàng Thế giới xếp Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, và các chuyên gia từ các tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng Phát triển châu Á và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã cảnh báo về nguy cơ bẫy thu nhập trung bình Mặc dù Việt Nam có thể vượt qua mức thu nhập 996 USD, việc đạt mức thu nhập bình quân 12.195 USD/người/năm vẫn là một thách thức lớn Để thoát khỏi bẫy tăng trưởng trung bình, các nhà hoạch định chính sách cần có chiến lược phát triển kinh tế hiệu quả trong thời gian tới.

Trong 10 năm tới, mục tiêu hướng đến là mô hình tăng trưởng bền vững, tập trung vào an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách chênh lệch thu nhập và tiêu dùng Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã khẳng định chủ trương quan trọng này trong chiến lược phát triển.

12 Ngưỡng phân loại của Ngân hàng Thế giới đối với quốc gia có thu nhập trung bình là từ 996 đến 12.195 USD/người/năm.

CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 35 nông thôn, nông nghiệp và nông dân, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển xã hội, đã trở thành một chủ trương chiến lược liên tục được bổ sung qua các kỳ Đại hội của Đảng Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh việc thực hiện hiệu quả chính sách giảm nghèo theo từng giai đoạn, đa dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, đặc biệt tại các huyện nghèo và vùng khó khăn Đồng thời, cần khuyến khích làm giàu hợp pháp, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá, và áp dụng các chính sách nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị.

Nâng cao chất lượng tăng trưởng là trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020, nhằm cải thiện điều kiện sống của người dân, đặc biệt là ở khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số Mục tiêu là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tại các vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các vùng và dân tộc khác nhau Để hiện thực hóa định hướng này, Chính phủ đã đề ra các mục tiêu và lộ trình từ 2011 đến 2020 nhằm kéo gần khoảng cách giàu nghèo Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách an sinh xã hội cho người nghèo, như cấp thẻ bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí cho học sinh và sinh viên, hỗ trợ nhà ở, cũng như cung cấp giống cây, con để giúp hộ nghèo cải thiện đời sống.

Vào năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP vào ngày 24 tháng 2 nhằm đưa ra các giải pháp chính để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội Đến nay, Nghị quyết này đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần vào sự ổn định và phát triển kinh tế.

Tỷ lệ hộ nghèo tại Việt Nam năm 2011 đã giảm 1,5% so với năm 2010, cho thấy hiệu quả của các chính sách xóa đói giảm nghèo Các tổ chức quốc tế đã ghi nhận những nỗ lực này, với số hộ thiếu đói giảm xuống còn 609,6 nghìn hộ và 2.563 nghìn khẩu, tương ứng với mức giảm 18,6% về số hộ và 12,0% về số khẩu so với năm trước.

Năm 2011, ngoài việc nhận trợ cấp từ Nhà nước, các cấp, ngành, đoàn thể xã hội và người dân đã hỗ trợ khoảng 17 nghìn tấn lương thực và hơn 9,9 tỷ đồng cho các hộ thiếu đói Đồng thời, các địa phương đã giúp 395 trong tổng số 496 nghìn hộ nghèo xây dựng nhà ở.

Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đã tăng từ gần 60% năm 2010 lên 62% năm 2011, với hơn 15 triệu người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn cùng khoảng 7 triệu trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT và khám chữa bệnh miễn phí Tỷ lệ trẻ mầm non đến trường tăng gần 1%, 57/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, và 63/63 địa phương đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở Tỷ lệ người lớn biết chữ đạt khoảng 94%, trong khi tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm học 2010 - 2011 đạt 95,72% Năm 2011, số lượng tuyển mới vào đại học, cao đẳng tăng 11,6%, trung cấp chuyên nghiệp tăng 10,8%, và cao đẳng nghề cùng trung cấp nghề tăng 16,7% Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 40%, với 1,56 triệu lao động được tạo việc làm mới trong cả năm 2011.

Chính phủ Việt Nam hàng năm đầu tư khoảng 1 nghìn tỷ đồng cho khoa học nông nghiệp, nhưng ngành nông nghiệp công nghệ cao vẫn chưa phát triển Mặc dù một số sản phẩm nông nghiệp đạt sản lượng lớn, nhưng giá trị kinh tế chưa cao, và nhiều sáng kiến ứng dụng trong nông nghiệp chủ yếu do nông dân tự phát triển, còn thô sơ Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Chính phủ đã triển khai các gói kích thích kinh tế, tập trung vào hỗ trợ lãi suất cho nông nghiệp nông thôn, cùng với các chính sách an sinh xã hội giúp cải thiện thu nhập và tiêu dùng cho người dân Nghị quyết 30a về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đã được thực hiện, với 62 huyện nghèo được hỗ trợ bởi 41 tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp, trong đó có nhiều doanh nghiệp cam kết giúp đỡ nhiều huyện Tính đến tháng 9/2010, 36/41 doanh nghiệp đã triển khai hỗ trợ cho 55 huyện với tổng số tiền cam kết 1.653 tỷ đồng, mang lại kết quả tích cực như hỗ trợ xây dựng nhà ở, trường học và học bổng cho học sinh.

Trong tổng số 70,5 tỷ đồng hỗ trợ cho 5 học sinh, sinh viên, có 81,3 tỷ đồng dành cho đào tạo nghề và 47,9 tỷ đồng đầu tư vào cơ sở y tế Số tiền còn lại được sử dụng để xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội Nhiều đơn vị cũng đã nhận hỗ trợ trong việc đào tạo nghề, giúp lao động tự tìm kiếm việc làm hoặc cam kết đào tạo và nhận vào làm.

13 V ụ Kinh tế, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế tại Việt Nam,

14 Vụ Kinh tế, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế tại Việt Nam,

CIEM và Trung tâm Thông tin – Tư liệu 37 hỗ trợ doanh nghiệp thông qua học bổng, học phí, xây dựng trung tâm đào tạo nghề và nhà máy tại địa phương để tạo việc làm Nhiều doanh nghiệp, như Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam, hỗ trợ nông dân trồng thuốc lá bằng cách cung cấp nguyên liệu, thu mua sản phẩm và chuyển giao kỹ thuật Tổng Công ty Viễn thông Quân đội cũng góp phần phủ sóng điện thoại và cung cấp Internet cho các trường học Để hỗ trợ nhóm lao động yếu thế, Chính phủ đã cải cách tiền lương, đặc biệt là trong bối cảnh lạm phát, với mức lương tối thiểu được nâng lên 1,050 nghìn đồng vào tháng 5 năm 2012, giúp cải thiện đời sống cho cán bộ, công nhân và người nghỉ hưu.

Kế hoạch sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân nhằm giảm khoảng cách chênh lệch thu nhập là một nỗ lực đáng ghi nhận Theo dự thảo, người có thu nhập dưới trung bình sẽ không phải nộp thuế, với mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế là 6 triệu đồng/tháng và 2,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc Khoảng 70% người nộp thuế ở bậc 1 sẽ không phải nộp thuế, trong khi 70% ở bậc 2 sẽ giảm xuống bậc 1 Cần thiết phải sửa đổi mức thuế cao 35% để bảo đảm sự hợp lý giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân Dự thảo cũng đề cập đến việc sửa đổi thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản nhằm ngăn chặn việc trốn thuế Mục tiêu của việc sửa đổi này là đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập, khuyến khích người dân lao động và nâng cao đời sống Trong giai đoạn 2011 – 2015, sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình giảm nghèo và huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước cũng như các tập đoàn kinh tế, ngân hàng thương mại để hỗ trợ người nghèo Các phương thức hỗ trợ bao gồm vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở và đào tạo nguồn nhân lực.

VI Kết quả thực hiện và kiến nghị cho những năm tới

IV.1 Kết quả thực hiện giảm chênh lệch thu nhập

Kết quả thực hiện và kiến nghị cho những năm tới

Ngày đăng: 04/01/2022, 13:00

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1.Quốc Dũng, Chênh lệch phát triển tạo ra 'túi nghèo' của đất nước, TuanVietnam, 07/07/2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chênh lệch phát triển tạo ra 'túi nghèo' của đất nước
2.Diễn đàn kinh tế và Tài chính, Điều kiện gia nhập WTO vủa Việt Nam và tác động của việc gia nhập này đối với tình hình phân phối thu nhập, 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều kiện gia nhập WTO vủa Việt Nam vàtác động của việc gia nhập này đối với tình hình phân phối thu nhập
3. Đỗ Đức Định, Kinh tế thị trường bền vững: mô hình phát triển mới cho Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 7/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế thị trường bền vững: mô hình phát triển mới cho ViệtNam giai đoạn 2011 – 2020
4. Lê Quốc Hội, Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam và những khuyến nghị chính sách. Bài viết đăng trong ấn phẩm “Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: cơ hội và thách thức đối với Việt nam”, Diễn đàn Phát triển Việt nam, NXB GTVT, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam và những khuyến nghịchính sách". Bài viết đăng trong ấn phẩm “Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: cơhội và thách thức đối với Việt nam
Nhà XB: NXB GTVT
5.Thanh Hương, Bất bình đẳng thu nhập và cơ hội, Thời báo kinh tế Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bất bình đẳng thu nhập và cơ hội

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập - GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM
Bảng 1 Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập (Trang 12)
Bảng 2. Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo nguồn thu của nhóm ngũ phân giàu nhất và - GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM
Bảng 2. Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo nguồn thu của nhóm ngũ phân giàu nhất và (Trang 14)
Bảng 4. Thu nhập bình quân đầu người/ tháng thành thị - nông thôn từ - GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM
Bảng 4. Thu nhập bình quân đầu người/ tháng thành thị - nông thôn từ (Trang 16)
Bảng 5. Chênh lệch theo khu vực ở Việt Nam - GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM
Bảng 5. Chênh lệch theo khu vực ở Việt Nam (Trang 17)
Bảng 6. Tỷ lệ người nghèo chung theo các vùng ở Việt Nam từ 1998-2008 (%) - GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM
Bảng 6. Tỷ lệ người nghèo chung theo các vùng ở Việt Nam từ 1998-2008 (%) (Trang 18)
Bảng 7. Thu nhập bình quân đầu người theo vùng 1999-2010 (nghìn đồng) - GIẢM KHOẢNG CÁCH CHÊNH LỆCH THU NHẬP TO REDUCE INCOME GAPIN VIETNAM
Bảng 7. Thu nhập bình quân đầu người theo vùng 1999-2010 (nghìn đồng) (Trang 19)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w