Tình hình chênh lệch thu nhập hiện nay ở Việt Nam
Chênh lệch thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất 12 I.2 Giữa nông thôn và thành phố
Tốc độ tăng trưởng đầu tư và kinh tế gần đây đã dẫn đến sự gia tăng khoảng cách thu nhập giữa 20% người giàu nhất và 20% người nghèo nhất, cho thấy sự chênh lệch này đang ngày càng mở rộng Bảng 1 dưới đây minh họa rõ nét tình hình này.
Bảng 1: Thu nhập bình quân đầu người và chênh lệch thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người / tháng theo giá thực tế (nghìn đồng)
Chênh lệch thu nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất (lần)
Nhóm thu nhập cao nhất
Nhóm thu nhập thấp nhất
Theo nghiên cứu của Cornia và Court (2001), hệ số Gini trong khoảng 0,30 - 0,45 cho thấy mức độ chênh lệch thu nhập an toàn và hiệu quả, đồng thời phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế cao.
Nguồn: Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình các năm, Tổng cục thống kê.
Dựa trên số liệu từ bảng 1, chênh lệch thu nhập giữa nhóm ngũ phân nghèo nhất và nhóm ngũ phân giàu nhất đã liên tục gia tăng Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2008 và 2008-2010, khoảng cách này đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn so với các giai đoạn trước đó.
Sự chênh lệch rõ rệt trong cơ cấu nguồn thu nhập giữa nhóm ngũ phân giàu nhất và nhóm ngũ phân nghèo nhất được thể hiện qua Bảng 2 dưới đây.
Theo điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010 của Tổng cục Thống kê, tăng thu nhập chủ yếu đến từ tiền lương, tiền công và công việc tự làm xây dựng, với tỷ trọng thu nhập từ tiền lương chiếm 44,9% Cơ cấu thu nhập đã có sự chuyển biến đáng kể so với các năm trước, trong đó thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm, còn thu từ dịch vụ tăng Sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nghèo nhất cũng rõ rệt; nhóm 5 chủ yếu dựa vào tiền lương, trong khi nhóm 1 vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp Mặc dù thu nhập bình quân hộ gia đình tăng, nhưng nhóm thu nhập thấp lại có tốc độ tăng chậm hơn, dẫn đến khoảng cách giàu - nghèo ngày càng gia tăng.
5 Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2010, Tổng cục Thống kê.
Bảng 2 Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo nguồn thu của nhóm ngũ phân giàu nhất và nhóm nghèo nhất
Tiền lương/ tiền công Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản Công nghiệp Xây dựng Thương nghiệp Dịch vụ Khác
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2010, Tổng cục Thống kê.
CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 14
CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 15
Tình trạng chênh lệch thu nhập tuyệt đối ở Việt Nam đang gia tăng đáng lo ngại, với thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình giàu nhất gấp 9,2 lần so với hộ nghèo nhất vào năm 2010, tăng từ 7 lần vào năm 1995 Hệ số Gini cũng cho thấy sự gia tăng từ 0,42 năm 2004 lên 0,43 năm 2010, phản ánh sự chênh lệch này Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là sự gia tăng này không chỉ là hiện tượng người giàu càng giàu hơn mà còn cho thấy người nghèo cũng có thu nhập bình quân tăng lên và tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh trong thời gian qua.
Bảng 3 cho thấy sự chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm giàu nhất và 20% nhóm nghèo nhất tại Việt Nam cao hơn nhiều quốc gia châu Á Điều này dấy lên lo ngại về sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời gian gần đây.
Bảng 3 Khoảng cách giàu nghèo của Việt Nam và một số nước khác
(năm điều tra khác nhau giữa các nước) Nước Năm điều tra
Khoảng cách thu nhập của 20% nghèo nhất so với 20% giàu nhất
Nguồn: Báo cáo phát triển con người 2008, UNDP.
6 Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, 2010.
CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 16
7 Tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm nhanh từ 58,1% năm 1993 xuống còn 16% năm 2006.
I.2 Giữa nông thôn và thành phố
Xem xét thu nhập theo vùng kinh tế, các thành phố lớn và khu công nghiệp phát triển thường có mức thu nhập cao.
Một điểm đáng chú ý là mức thu nhập bình quân đầu người Việt Nam tăng từ
Từ năm 1999 đến 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố tăng từ 295 nghìn đồng lên 995 nghìn đồng/tháng, trong khi ở nông thôn, mức thu nhập chỉ tăng từ 225 nghìn đồng lên 762 nghìn đồng/tháng Sự chênh lệch này càng rõ nét khi đến năm 2010, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị vẫn cao gấp hơn 2 lần so với khu vực nông thôn, cho thấy sự khác biệt lớn trong mức sống giữa hai khu vực.
Bảng 4 Thu nhập bình quân đầu người/ tháng thành thị - nông thôn từ
Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010
Sự chênh lệch giàu nghèo không chỉ tồn tại giữa đô thị và nông thôn, mà còn gia tăng ngay trong các vùng quê Theo kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2010 tại 12 tỉnh của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, khoảng cách giàu nghèo trong các gia đình nông thôn cũng đang ngày càng mở rộng.
Bảng 5 chỉ ra rằng thu nhập ở khu vực thành thị cao hơn đáng kể so với khu vực nông thôn Nguyên nhân của sự chênh lệch này có thể là do những khu vực có xuất phát điểm thấp thường có khoảng cách về giàu nghèo nhỏ hơn so với những nơi có xuất phát điểm cao.
Bảng 5 Chênh lệch theo khu vực ở Việt Nam
Hệ số Gini theo thu nhập
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình.
Tốc độ gia tăng chênh lệch thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là ở nông thôn Một trong những nguyên nhân chính là tình trạng người dân không có đất hoặc bị mất đất Cụ thể, tỷ lệ hộ nông thôn không có đất ở Đông Nam Bộ đã tăng từ 17% vào năm 1993 lên 40% vào năm 2004 (Mekong Economics, 2005) Việc thiếu đất canh tác đồng nghĩa với việc nông dân mất đi nguồn thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp.
Giá đất đai tăng mạnh và tình trạng mất đất của nông dân đã làm gia tăng chênh lệch thu nhập tại khu vực nông thôn Ngoài ra, hiện tượng di cư tìm việc làm từ nông thôn ra thành thị cũng góp phần làm gia tăng sự chênh lệch này, khi những hộ gia đình có người di cư thường có thu nhập và chi tiêu cao hơn so với những hộ không có người di cư.
Tỉ lệ nghèo ở thành thị giảm nhanh hơn so với nông thôn, chỉ còn gần một phần ba, trong khi nông thôn chỉ giảm hơn hai lần trong cùng thời kỳ Cụ thể, vào năm 2008, tỉ lệ nghèo ở thành thị là 3,3%, chỉ bằng 1/6 so với tỉ lệ nghèo ở nông thôn là 18,7%.
Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam đang gia tăng, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước Bài viết phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm giảm thiểu bất bình đẳng, bao gồm việc cải thiện hệ thống giáo dục, tăng cường cơ hội việc làm và nâng cao phúc lợi xã hội Những giải pháp này không chỉ giúp thu hẹp khoảng cách thu nhập mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn diện.
Bảng 6 Tỷ lệ người nghèo chung theo các vùng ở Việt Nam từ 1998-2008 (%)
TT Tỷ lệ hộ nghèo 1998 2002 2004 2006 2008
5 Trung du, miền núi phía, Bắc 64,5 47,9 38,3 32,3 31,6
6 Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4
9 Đồng bằng sông Cửu long 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3
Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2010
Giữa các thành phố và vùng miền
I.3.1 Thực trạng chênh lệch thu nhập giữa các thành phố và vùng miền
Theo số liệu mới nhất từ Tổng cục Thống kê năm 2011, chênh lệch giàu nghèo tại Việt Nam đã lên tới 9,2 lần Cụ thể, thu nhập bình quân của người dân đạt 1,387 triệu đồng/người/tháng, trong khi nhóm nghèo nhất chỉ kiếm được 369.000 đồng mỗi tháng, còn nhóm giàu nhất có thu nhập trung bình trên 3,4 triệu đồng Khoảng cách giàu nghèo này đang ngày càng gia tăng.
Chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền đã gây ra nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của cả nước Theo đánh giá mức sống hộ gia đình năm 2010, thu nhập bình quân đầu người tháng 2010 tăng so với năm 2008, nhưng vẫn tồn tại sự chênh lệch rõ rệt giữa các vùng.
CIEM cho biết rằng Trung tâm Thông tin – Tư liệu 20 có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất tại Đông Nam Bộ, gấp 2,5 lần so với khu vực có thu nhập thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc.
Bảng 7 Thu nhập bình quân đầu người theo vùng 1999-2010 (nghìn đồng)
6 Duyên hải Nam trung bộ 305,8 414,9 550,7 843,3 1162,1
8 Đông Nam Bộ 619,7 833 1064,7 1649,2 2165 Đồng bằng sông
Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, 2011
Mặc dù Việt Nam đã ưu tiên phân bổ vốn cho các tỉnh nghèo nhằm thúc đẩy sự phát triển đồng đều, nhưng sự chênh lệch tốc độ phát triển giữa các khu vực vẫn rất lớn, dẫn đến sự hình thành các "túi nghèo" Những "túi nghèo" này chủ yếu tập trung ở các vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Điện Biên (trên 50%), Lai Châu, Hà Giang (trên 40%), và một số tỉnh khác như Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30%) Ngoài ra, tình trạng tái nghèo cũng đang xuất hiện ở một số địa phương.
Sự chênh lệch mức thu nhập giữa các thành phố được thể hiện rõ qua số liệu từ UBND Thành phố Hà Nội Cụ thể, trong năm 2010, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Hà Nội đạt 9-10%, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 36,5-37,5 triệu đồng (tương đương 1950 USD) Đến năm 2011, GDP tăng lên 10,1% so với năm trước, trong khi thu nhập bình quân đầu người đạt trên 1850 USD/năm.
10 Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, 2010.
CIEM, Trung tâm Thông tin – Tư liệu 21
Cục Thống kê TP.Hồ Chí Minh vừa công bố tình hình kinh tế xã hội, cho thấy GDP năm 2011 tăng 10,3% so với năm 2010 Dù gặp nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vẫn đạt hơn 60 triệu đồng/năm, tương đương 3.000 USD.
Năm 2011, Cần Thơ ghi nhận mức tăng trưởng kinh tế 14,64%, với thu nhập bình quân đầu người đạt 48,9 triệu đồng (khoảng 2.350 USD), tăng 332 USD so với năm 2010.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nổi bật với vị thế là vựa dầu mỏ, với thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 5.800 USD, cao gấp gần 5 lần mức trung bình cả nước và gần gấp đôi TP.Hồ Chí Minh Đặc biệt, TP.Hồ Chí Minh chỉ đạt mức thu nhập bình quân đầu người 4.800 USD vào năm 2015, cho thấy sự phát triển kinh tế vượt trội của Bà Rịa - Vũng Tàu.
70 triệu đồng (khoảng 3.300 USD) thì Bà Rịa - Vũng Tàu đã mạnh dạn đặt chỉ tiêu tới 11.500 USD, nếu tính cả dầu thô là 15.000 USD.
Trong khi đó , ở các tỉnh nghèo, kinh tế kém phát triển, thu nhập rất thấp.
Năm 2011, GDP của tỉnh Nam Định tăng 12,1% so với cùng kỳ, với thu nhập bình quân đầu người đạt 19,2 triệu đồng/năm Tỉnh Bắc Cạn, một trong những tỉnh nghèo nhất Việt Nam, ghi nhận mức tăng GDP 13% so với năm 2010, thu nhập bình quân đầu người đạt 14,6 triệu đồng, tăng 2,7 triệu đồng so với năm trước Trong khi đó, tỉnh Quảng Ngãi có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, chưa đến 9 triệu đồng/năm, và tỉnh Hà Giang còn thấp hơn, với mức thu nhập dưới 6 triệu đồng/năm, nhiều huyện nghèo chỉ đạt khoảng 3 triệu đồng/người/năm.
Các số liệu trên phản ánh rõ rệt sự chênh lệch trong đời sống kinh tế giữa các vùng miền Các tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu tận dụng tốt lợi thế về cửa khẩu, tài nguyên và cảng biển, trong khi các tỉnh miền núi như Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và Bắc Kạn lại thiếu tiềm lực phát triển Thu nhập bình quân đầu người ở các thành phố lớn cao gấp khoảng 10 lần so với các vùng nghèo Đây là một vấn đề nghiêm trọng mà Nhà nước đang nỗ lực khắc phục, nếu không, sự phân hóa giàu nghèo sẽ ngày càng gia tăng, gây ra những hệ lụy khó lường trong đời sống kinh tế và chính trị.
Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh, hai thành phố lớn nhất Việt Nam, có sự khác biệt rõ rệt về tiềm lực kinh tế Mặc dù mức tăng trưởng GDP của cả hai thành phố trong năm 2011 đều trên 10%, nhưng GDP của TP.Hồ Chí Minh gấp hơn 6 lần so với Hà Nội, với Hà Nội chỉ chiếm 15,6% GDP của TP.Hồ Chí Minh Bên cạnh đó, thu nhập bình quân đầu người của TP.Hồ Chí Minh cao gấp 2,5 lần so với mức trung bình cả nước, trong khi Hà Nội chỉ cao hơn 1,4 lần Điều này cho thấy khoảng cách kinh tế lớn mà Hà Nội cần nỗ lực để thu hẹp.
I.3.2 Các yếu tố mang đến chênh lệch thu nhập giữa các vùng
Chênh lệch phân phối thu nhập giữa các vùng sinh thái ở Việt Nam xuất phát từ điều kiện thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và mức độ đầu tư vào hạ tầng trong quá khứ Những yếu tố này tạo ra sự khác biệt rõ rệt trong mức sống và phát triển kinh tế giữa các khu vực.
Điều kiện thiên nhiên ở Việt Nam, với hai đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long, cùng vùng duyên hải miền Trung, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Đồng Bằng Sông Hồng cung cấp đất trồng lúa phì nhiêu quanh Hà Nội, trong khi Sông Cửu Long hỗ trợ sản xuất lúa cho 12 tỉnh miền Nam, giúp nâng cao mức sống của cư dân Ngược lại, dân cư vùng rừng núi biên giới với Trung Quốc sống chủ yếu nhờ lâm nghiệp và chăn nuôi, có thu nhập thấp hơn Vùng duyên hải miền Trung phụ thuộc vào ngành thủy sản do thiếu đất trồng lúa Lịch sử và xã hội cũng ảnh hưởng đến thu nhập các vùng; thời kỳ thuộc địa Pháp chia Việt Nam thành ba khu vực với hệ thống hành chính khác nhau Sài Gòn và Nam Bộ được đầu tư phát triển hạ tầng, như đường xá và cảng biển, trong khi Hải Phòng trở thành thương cảng quốc tế, tạo ra sự chênh lệch thu nhập rõ rệt giữa các vùng.
Cuộc chiến tranh từ năm 1965 đến 1975 đã để lại nhiều di tích trên lãnh thổ Việt Nam, với sự thiết lập cơ sở quân sự lớn của chính quyền Mỹ tại Đà Nẵng và việc xây dựng cảng Cam Ranh Trong tương lai, Đà Nẵng và cảng Cam Ranh có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế khu vực Miền Trung.
Sự hiện diện của người dân tộc tại một số địa phương là yếu tố quan trọng giải thích sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng Mặc dù người Kinh chiếm khoảng 85% tổng dân số Việt Nam và đã đồng hóa vào xã hội, nhưng sự tập trung của người dân tộc tại các khu vực như Tây Nguyên, Tây Bắc và Đông Bắc đã tạo ra những đặc trưng địa phương riêng biệt Ở Tây Nguyên, sự phân phối thu nhập có mô hình khác biệt, với hệ số Gini lớn, cho thấy ảnh hưởng của người dân tộc Tại Tây Bắc và Đông Bắc, tỷ lệ người dân tộc cao, kết hợp với điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, có thể là nguyên nhân dẫn đến mức thu nhập tương đối thấp trong hai vùng này.
Chênh lệch thu nhập giữa ngành kinh tế
Trong thời gian gần đây, chênh lệch thu nhập giữa các ngành kinh tế cũng là một vấn đề nổi cộm cần xem xét.
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tiền lương trung bình của người lao động trong năm 2009 ước đạt 2,84 triệu đồng mỗi tháng Cụ thể, doanh nghiệp Nhà nước có mức lương ước đạt 3,35 triệu đồng, trong khi Tổng công ty hạng đặc biệt và công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế Nhà nước đạt 5,9 triệu đồng Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ước đạt 2,65 triệu đồng, và doanh nghiệp dân doanh đạt 2,05 triệu đồng.
Theo thống kê của Bộ LĐ,TB và XH công bố vào tháng 10/2011, năm 2010, tiền lương bình quân của người lao động tiếp tục ổn định và có xu hướng tăng Cụ thể, tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp đạt 3,2 triệu đồng/người/tháng, tăng 10,3% so với năm 2009 Doanh nghiệp nhà nước có mức lương bình quân 3,8 triệu đồng, tăng 8,6%; doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nhà nước đạt 3,3 triệu đồng/người/tháng, tăng 10,0%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 3 triệu đồng, tăng 11,1%; và doanh nghiệp dân doanh có mức lương 2,7 triệu đồng/người/tháng, tăng 12,5% so với năm trước.
Vào năm 2010, ngành mỏ luyện kim dẫn đầu về mức lương tại Việt Nam với thu nhập bình quân 9,2 triệu đồng/người/tháng Ngành ngân hàng theo sau với 7,6 triệu đồng/người/tháng, tiếp đến là nhân viên ngành dược với 7 triệu đồng/người/tháng, và nhân viên ngành điện tử viễn thông có mức lương 5,5 triệu đồng/người/tháng.
Theo thống kê của Bộ LĐ, TB và XH năm 2010, nhân viên ngành dệt may, da giày và thực phẩm mặc dù đóng góp hàng tỉ USD vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm, nhưng vẫn có mức lương thấp hơn so với các ngành như mỏ, luyện kim, ngân hàng và dược.
2010 xuất khẩu gần 11,2 tỉ USD), nhưng mức lương trung bình lại chỉ được từ 2,1
- 2,3 triệu/ người/ tháng, đứng ở top cuối.
Mức lương trung bình của nhân viên trong các ngành hàng đầu thấp hơn từ 2,6 đến hơn 4 lần so với các ngành khác Nhiều chuyên gia cho rằng lương của nhân viên giảng dạy trong ngành giáo dục cũng không cao, với nhiều giáo viên có thâm niên hàng chục năm chỉ nhận lương từ 3 - 4 triệu đồng mỗi tháng Thậm chí, các kỹ sư và bác sĩ có kinh nghiệm cũng có mức lương tương tự.
Nhiều chuyên gia cho rằng sự khác biệt giữa các nghề và vị trí lao động là nguyên nhân chính tạo ra khoảng cách chênh lệch tiền lương Lao động có trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao, cũng như lao động quản lý giỏi, thường nhận mức lương cao hơn nhiều so với mức trung bình và lao động giản đơn Tuy nhiên, thực tế cho thấy cấu trúc kinh tế hiện nay còn tồn tại một số điểm chưa phù hợp, cùng với những bất ổn kinh tế vĩ mô, đã dẫn đến sự chênh lệch thu nhập giữa những người có cùng trình độ nhưng làm việc trong các ngành khác nhau.
Hộp 1: Thu nhập của nhân viên ngành ngân hàng
Theo số liệu thống kê năm 2011, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) dẫn đầu ngành ngân hàng với thu nhập bình quân đầu người đạt 22,4 triệu đồng/tháng, tiếp theo là Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) với 20,76 triệu đồng/tháng Cán bộ nhân viên Sacombank có thu nhập bình quân khoảng 14,7 triệu đồng/người/tháng, ACB khoảng 16 triệu đồng, Bảo Việt Bank đạt 12,9 triệu đồng, và Eximbank từ 7 đến 8 triệu đồng.
Các ngân hàng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất chủ yếu là những ngân hàng nhỏ, như Phương Tây với 5,7 triệu đồng, Phương Đông 6,3 triệu đồng và HDBank 6,4 triệu đồng.
Có thể thấy thu nhập bình quân đầu người của nhóm ngân hàng lớn gấp 2 - 3 lần nhóm ngân hàng nhỏ.
Thu nhập của nhân viên ở các tập đoàn - tổng công ty
Trong năm 2011, thu nhập bình quân đầu người/tháng của một số tập đoàn lớn tại Việt Nam như sau: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PVN) đạt 16,2 triệu đồng, Tổng công ty Rượu Bia Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) 9,7 triệu đồng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 8,6 triệu đồng, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) 7,7 triệu đồng, và Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) 3,9 triệu đồng.
Bài viết phản ánh sự chênh lệch thu nhập đáng kể giữa các tập đoàn, với PVN có mức thu nhập gấp hơn 4 lần Vinatex và hơn 2 lần TKV Trong cùng một tập đoàn như PVN, sự khác biệt còn rõ rệt hơn khi nhiều chuyên gia, bao gồm cả chuyên gia nước ngoài, nhận lương lên tới 40.000 - 50.000 USD/người/tháng EVN là một ví dụ điển hình khi thu nhập bình quân của khối văn phòng gần 30 triệu đồng/người/tháng, trong khi khối phân phối điện chỉ đạt 7,9 triệu đồng/người/tháng Đặc biệt, một số lãnh đạo cấp cao tại các tập đoàn nhà nước nhận lương lên tới 70 - 80 triệu đồng/người/tháng, vượt quá mức quy định của Nhà nước là 50 triệu đồng/người/tháng, gây bức xúc trong dư luận.
Theo thống kê, thu nhập bình quân đầu người tại một số tổng công ty hiện nay như sau: Tổng công ty Thép đạt 7,6 triệu đồng, Tổng công ty Hóa chất đạt 7,0 triệu đồng, và Tổng công ty Công nghiệp dầu thực vật đạt 6,9 triệu đồng.
Khối sản xuất kinh doanh nói chung đạt 5,7 triệu đồng/người/tháng.
So với mức thu nhập trung bình toàn quốc là 2,16 triệu đồng/người/tháng, thu nhập tại các ngân hàng và tập đoàn lớn cao gấp 2 đến 8 lần Đặc biệt, sự chênh lệch giữa người có thu nhập cao nhất và thấp nhất trong khối này còn lớn hơn, cho thấy sự bất bình đẳng rõ rệt trong thu nhập.
Thu nhập của công chức - viên chức khối hành chính sự nghiệp
Thu nhập bình quân đầu người trong khối hành chính sự nghiệp có sự biến động rõ rệt tùy theo ngành nghề Cụ thể, các trường đại học cao đẳng có mức thu nhập từ 3,5 đến 8,5 triệu đồng/người/tháng, trong khi đó, các trường mẫu giáo mầm non chỉ đạt từ 1,2 đến 2,4 triệu đồng/người/tháng Các bệnh viện tuyến trung ương có thu nhập dao động từ 1,8 đến 8 triệu đồng/người/tháng, còn các bệnh viện tuyến địa phương đạt từ 1,4 đến 4 triệu đồng/người/tháng Đối với các viện nghiên cứu, mức thu nhập trung bình từ 2,5 đến 7 triệu đồng/tháng.
Nguồn: Hoa Lê, Thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, Tạp chí
Chỉ số Gini Index ở Việt Nam hiện đạt 0,4, cho thấy phân bố thu nhập vẫn ở mức an toàn theo đánh giá của các tổ chức quốc tế Mặc dù đời sống người dân đã cải thiện và tỷ lệ nghèo giảm, chỉ số Gini vẫn cao và có xu hướng tăng qua các năm, từ 0,423 năm 2004 lên 0,425 năm 2006 Hệ số Gini cao phản ánh sự phân hóa thu nhập và giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư Theo Ngân hàng Thế giới, trước năm 1990, các nước có thu nhập thấp có hệ số Gini từ 0,389 đến 0,550, trong khi các nước thu nhập trung bình từ 0,378 đến 0,605, và các nước kinh tế thị trường công nghiệp từ 0,285 đến 0,404 Điều này cho thấy chênh lệch thu nhập ở Việt Nam tương đối cao so với thế giới và đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Để đạt được phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với an sinh xã hội và công bằng Trong việc phân tích chênh lệch giàu nghèo, xã hội được chia thành năm nhóm thu nhập: 20% rất cao, 20% khá, 20% trung bình và 20% nghèo Nếu không có các giải pháp hỗ trợ nhóm 20% nghèo, như chương trình an sinh xã hội, giảm nghèo và ưu tiên cho các vùng khó khăn, cùng với việc tái cơ cấu kinh tế để thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và ngành, chênh lệch giàu nghèo sẽ ngày càng gia tăng.
I Kinh nghiệm của Trung Quốc về giảm chênh lệch thu nhập, thu hẹp được khoảng cách
Kinh nghiệm của Trung Quốc về giảm chênh lệch thu nhập, thu hẹp được khoảng cách
Chênh lệch thu nhập thành thị - nông thôn: Một quan sát trực diện
Biểu đồ 1 Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn Trung Quốc
Nguồn : Tổng hợp từ Niên giám thống kê Trung Quốc năm 2000 và năm
11 Hệ số Gini được sử dụng để đánh giá về mức độ bất bình đẳng thu nhập Trong đó, 0 < Hệ số Gini