Tính cấ p thi ế t c ủa đề tài
Đất nông nghiệp (ĐNN) đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng dân cư trên toàn cầu, vì đây là nguồn tài nguyên thiết yếu để sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu cầu con người.
Việt Nam đang tích cực phát triển nền kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá để hội nhập kinh tế toàn cầu, nhưng điều này đòi hỏi phải có quỹ đất cho cơ sở hạ tầng, dẫn đến việc thu hồi đất từ các cá nhân và tổ chức, bao gồm cả nhóm đất nông nghiệp (ĐNN) Việc thu hồi đất cần đảm bảo lợi ích hài hoà cho mọi tầng lớp, đặc biệt là nông dân mất tư liệu sản xuất Hành động thu hồi không chỉ đơn thuần là chấm dứt quyền sử dụng đất mà còn gây ra những hậu quả kinh tế - xã hội cần được giải quyết kịp thời để duy trì ổn định chính trị và xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của những người quen lao động trên các mảnh đất đã bị thu hồi.
Tỉnh Ninh Thuận, với tổng diện tích tự nhiên 335.800 ha, chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp với 69.698 ha, lâm nghiệp 185.955 ha và nuôi trồng thủy sản 1.825 ha Mặc dù là tỉnh khô hạn nhất Việt Nam, Ninh Thuận lại có lợi thế phát triển các cây trồng và vật nuôi đặc thù như nho, bông, thuốc lá, dê và cừu Thời gian gần đây, nhờ sự hỗ trợ từ các nguồn lực trong và ngoài nước cùng nỗ lực thu hút đầu tư, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào xây dựng khu dân cư và khu công nghiệp tại tỉnh.
Ninh Thuận đã tận dụng lợi thế năng lượng tái tạo để thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống người dân Tuy nhiên, quản lý đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp, vẫn còn thiếu hệ thống và chưa đầy đủ, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc thu hồi và bồi thường đất cho các dự án năng lượng Sự mâu thuẫn giữa người dân và cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này đã tạo ra những tranh chấp kéo dài, ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư của tỉnh Nguyên nhân một phần do thiếu hiểu biết pháp luật của người dân, cùng với những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật bồi thường đất Để giải quyết những vấn đề này, cần có đánh giá toàn diện và đề xuất giải pháp hoàn thiện cho công tác bồi thường đất nông nghiệp, nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội của Ninh Thuận và cả nước Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn tốt nghiệp.
Tình hình nghiên cứ u
Bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một chế định quan trọng trong pháp luật đất đai, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị thu hồi đất, cộng đồng và nhà đầu tư Do đó, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu sâu sắc từ giới khoa học pháp lý.
Thời gian gần đây, nhiều công trình và sách báo pháp lý đã được công bố, nghiên cứu về lĩnh vực này từ cả lý luận và thực tiễn, nổi bật là các tác phẩm của những tác giả tiêu biểu.
Luận văn Thạc sĩ nghiên cứu "Ảnh hưởng của chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng" đến đời sống và việc làm của người dân bị thu hồi đất tại thị xã Nghiên cứu này phân tích tác động của các chính sách bồi thường đối với sự ổn định kinh tế và xã hội của cộng đồng bị ảnh hưởng Kết quả cho thấy việc thực hiện chính sách bồi thường hợp lý có thể cải thiện đời sống của người dân, đồng thời tạo ra cơ hội việc làm mới Tuy nhiên, nếu chính sách không được thực hiện công bằng, nó có thể dẫn đến những hệ lụy tiêu cực cho người dân.
Luận văn "Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị" của Trần Thị Loan, năm 2016, tại Trường Đại học Nông Lâm Huế, nghiên cứu về chính sách bồi thường và giải phóng mặt bằng (GPMB) khi nhà nước thu hồi đất Bài viết phân tích những tác động của chính sách bồi thường và hỗ trợ đến đời sống và việc làm của người dân bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất.
Để cải thiện công tác bồi thường và giải phóng mặt bằng (GPMB) trong việc thu hồi đất nông nghiệp của người dân, cần đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm đảm bảo quyền lợi cho những đối tượng dễ bị tổn thương trong quá trình đô thị hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng đất Mục tiêu cuối cùng là mang lại cuộc sống tốt hơn cho cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng.
Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thùy Linh, năm 2015, tại Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tập trung vào "Những vấn đề pháp lý về định giá đất trong giải phóng mặt bằng tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang" Nghiên cứu này phân tích lý luận về định giá đất, các vấn đề pháp luật liên quan đến định giá đất trong giải phóng mặt bằng (GPMB) và thực trạng pháp luật hiện hành Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về định giá đất trong GPMB và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật này tại địa phương.
Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Thị Thu Trang, năm 2012, nghiên cứu vấn đề bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình và cá nhân tại tỉnh Nghệ An, dựa trên Luật Đất năm 2003 Nghiên cứu không chỉ phân tích thực trạng bồi thường mà còn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan và nâng cao hiệu quả thực hiện tại địa phương.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Tâm, năm 2013, tại Trường Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu về pháp luật thu hồi đất trong mối quan hệ giữa nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành, thực tiễn thực hiện các quy định liên quan, và đề xuất hoàn thiện pháp luật để đảm bảo sự hài hòa trong mối quan hệ này.
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thu Thủy, năm 2014, tại trường Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu sâu về pháp luật liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam Nghiên cứu này không chỉ phân tích các quy định pháp lý hiện hành mà còn đề xuất các giải pháp cải thiện hệ thống bồi thường nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân trong quá trình thu hồi đất.
Luận án này đã nghiên cứu thực tiễn quy định của pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi ĐNN trên phạm vi cảnước nói chung.
Trong bài viết “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” của tác giả Trần Quang Huy, đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2010, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chính sách hỗ trợ cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất Bài viết cũng đề cập đến cơ sở pháp lý cho việc thực thi chính sách này, các quy định cụ thể liên quan đến hỗ trợ và đưa ra những kiến nghị nhằm cải thiện chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong bài viết “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến, đăng trên Tạp chí Luật học số 3/2012, nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc công khai và minh bạch trong các quy định liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Việc này không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân bị thu hồi đất mà còn góp phần nâng cao tính công bằng và trách nhiệm trong quá trình thực hiện chính sách đất đai.
Trong bài viết của Trần Quang Huy (2010), tác giả phân tích chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, nhấn mạnh thực trạng công khai và minh bạch trong việc thực hiện các quy định về bồi thường và giải phóng mặt bằng Tạp chí Luật học số 10/2010 cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội trong quy trình này, góp phần nâng cao nhận thức về quyền lợi của người dân.
Sách chuyên khảo “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, GPMB ở
Việt Nam” do Doãn Hồng Nhung chủ biên được xuất bản bởi NXB Tư pháp năm
2013 đã đề cập đến vấn đề xác định giá đất trong bồi thường, GPMB ở nước ta giai đoạn trước khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực
Các nghiên cứu đã phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ nhiều góc độ khác nhau Đây là nguồn tài liệu quý giá cho việc kế thừa và mở rộng nghiên cứu về bồi thường, hỗ trợ trong bối cảnh thực tiễn thi hành và các quy định pháp luật Việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung và hoàn thiện các quy định mới trong Luật Đất đai năm 2013, nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng.
Luận văn "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi ĐNN và thực tiễn thi hành tại tỉnh Ninh Thuận" sẽ nghiên cứu sâu về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN tại tỉnh Ninh Thuận, một vấn đề chưa được đề cập trong các công trình trước đây Bài viết sẽ phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường trong các dự án gần đây tại tỉnh này, từ đó làm rõ những bất cập, vướng mắc và sai phạm phát sinh trong quá trình thực hiện Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, nhằm giải quyết các vấn đề tồn tại tại Ninh Thuận cũng như các địa phương khác.
Công khai minh bạch là yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất, như đã nêu trong bài viết của Nguyễn Quang Tuyến (2012) trên Tạp chí Luật học Việc thực hiện tốt chính sách này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi của người dân mà còn tạo cơ sở cho các kiến nghị cải tiến trong tương lai.
M ục tiêu của đề tài
M ục tiêu chung
Mục tiêu của đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi ĐNN và thực tiễn thi hành tại tỉnh Ninh Thuận” là nghiên cứu và đánh giá thực trạng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN tại Ninh Thuận Đề tài sẽ xem xét các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường, đánh giá tình hình thực thi và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN tại tỉnh này.
M ục tiêu cụ th ể
- Tìm hiểu quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN;
- Khảo sát thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà Nước thu hồi nhóm ĐNN tại tỉnh Ninh Thuận;
Bài viết này phân tích các ưu điểm và hạn chế trong công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Ninh Thuận Qua đó, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện quy trình bồi thường, đảm bảo quyền lợi cho người dân và nâng cao hiệu quả quản lý đất đai.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứ u
Đối tượng nghiên cứ u
Luận văn này nghiên cứu quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, bao gồm nguyên tắc và điều kiện bồi thường, các quy định cụ thể về bồi thường, hỗ trợ cho người sử dụng đất, và quy trình thủ tục bồi thường Từ đó, luận văn đánh giá thực trạng và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường tại tỉnh Ninh Thuận.
Ph ạm vi nghiên cứ u
- Phạm vi nội dung: Đềtài có phạm vi nội dung là các quy định của pháp luật
Bài viết này tập trung vào vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp (ĐNN) tại Việt Nam, đặc biệt là các quy định liên quan đến bồi thường và hỗ trợ cho đất nông nghiệp cũng như chi phí đầu tư trên nhóm đất này Ngoài ra, nghiên cứu cũng xem xét thực tiễn công tác thu hồi ĐNN tại tỉnh Ninh Thuận, từ đó đưa ra các kiến nghị về giải pháp và hướng hoàn thiện quy trình bồi thường.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu dựa trên Luật Đất đai
2013, phạm vi về thời gian: các số liệu mà luận văn nghiên cứu được khoanh vùng lại là từngày 01/7/2014 4 đến nay
- Phạm vi về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật về bồi thường khi thu hồi nhóm ĐNN tại tỉnh Ninh Thuận.
Câu hỏi và giả thuy ết nghiên cứ u
Câu hỏi nghiên cứ u
Đềtài sẽnghiên cứu và trả lời các câu hỏi sau:
- Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định như thế nào về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN?
Khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại Ninh Thuận cho thấy nhiều hạn chế trong quy định pháp luật và cơ chế thực thi Những bất cập này có thể dẫn đến sự không công bằng trong việc bồi thường cho người dân bị ảnh hưởng, làm giảm hiệu quả trong việc thực hiện chính sách thu hồi đất Cần có những cải cách để đảm bảo quyền lợi của người dân và nâng cao tính minh bạch trong quá trình bồi thường.
Cần hoàn thiện các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam để đảm bảo quyền lợi cho người dân Đồng thời, cần cải thiện cơ chế thi hành pháp luật liên quan đến vấn đề này nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình thu hồi đất Việc này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân mà còn tạo ra sự công bằng và minh bạch trong quản lý đất đai.
Gi ả thuy ết nghiên cứ u
Đề tài này được thực hiện dựa trên giả thuyết rằng pháp luật Việt Nam đã có quy định cụ thể về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, nhưng trong thực tế thi hành, những quy định này bộc lộ nhiều hạn chế Do đó, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như cơ chế thi hành liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
4 ngày Luật Đất đai 2013 có hiệ u l ực thi hành
Phương pháp nghiên cứ u
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, các phương pháp cụ thể được áp dụng bao gồm phương pháp tổng hợp, phân tích, chứng minh, so sánh và thống kê Những phương pháp này giúp đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp, hệ thống hoá và phân tích được áp dụng để đánh giá các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN, cũng như thực tiễn công tác bồi thường tại tỉnh Ninh Thuận Trong Chương 1 của Luận văn, phương pháp này nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN hiện nay như thế nào?”
Phương pháp tổng hợp và thống kê được áp dụng để thu thập và phân tích các số liệu cụ thể, từ đó rút ra những nhận xét và đánh giá cần thiết nhằm nắm bắt dữ liệu hàng năm Qua đó, phương pháp này giúp đề ra những nhiệm vụ và phương hướng hành động cụ thể Trong Chương 2 của Luận văn, phương pháp này được sử dụng để trả lời câu hỏi nghiên cứu về các giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm đất nông nghiệp tại Ninh Thuận trong thời gian tới.
Phương pháp so sánh được áp dụng để đối chiếu các số liệu và thông tin thu thập được qua các năm, nhằm rút ra những thành tựu và hạn chế trong công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN tại Ninh Thuận Qua đó, phương pháp này giúp xác định các biện pháp bổ sung kịp thời và xem xét những vướng mắc để tìm hướng giải quyết Điều này được thực hiện trong Chương 2 của Luận văn để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về thực tiễn thực thi pháp luật và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi thường trong tương lai.
K ế t c ấ u c ủ a lu ận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1 Lý luận chung và quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm ĐNN
Chương 2 trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Ninh Thuận, đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình này Việc đảm bảo quyền lợi cho người dân bị thu hồi đất là cần thiết, nhằm tạo sự công bằng và minh bạch trong chính sách bồi thường Các giải pháp đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
Nh ữ ng v ấn đề lý luậ n khi thu h ồi đất nhóm nông nghiệ p
Theo Luật Đất đai năm 1993, đất nông nghiệp (ĐNN) được định nghĩa là loại đất chủ yếu dùng cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp (Điều 42) ĐNN là một trong sáu loại đất đai được phân loại tại Việt Nam.
Luật Đất đai năm 2003 phân loại đất dựa trên mục đích sử dụng, chia thành ba nhóm chính: đất nông nghiệp (ĐNN), đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng Đặc biệt, khái niệm về đất nông nghiệp trong luật này được mở rộng hơn so với trước đây.
Theo Điều 10 Luật Đất đai 2013, đất đai được phân loại dựa trên mục đích sử dụng thành ba nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng Nhóm đất nông nghiệp (ĐNN) bao gồm các loại như đất trồng cây hàng năm (gồm đất trồng lúa và cây hàng năm khác), đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và các loại đất nông nghiệp khác.
Từ những phân tích trên có thểkhái quát lại khái niệm nhóm ĐNN như sau:
Nhóm ĐNN bao gồm các loại đất có đặc tính sử dụng tương tự, đóng vai trò là tư liệu sản xuất chủ yếu cho nông nghiệp và lâm nghiệp Các hoạt động chính liên quan đến nhóm đất này bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khoanh nuôi tu bổ, bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, và nghiên cứu thí nghiệm trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp.
5 bao g ồm ĐNN, đất lâm nghiệp, đấ t chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử d ụ ng
Ngoài những đặc điểm chung của đất đai 6 , nhóm ĐNN còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Nhóm đất nông nghiệp (ĐNN) có giá trị sử dụng chủ yếu dựa vào chất lượng và độ màu mỡ của đất Giá trị này phụ thuộc vào các yếu tố nông học, hóa học và thổ nhưỡng, bao gồm độ phì nhiêu, độ dày của lớp đất mặt, độ dốc và độ pH (độ chua).
Nhóm đất nông nghiệp (ĐNN) đóng vai trò thiết yếu trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối, không thể thay thế Nghiên cứu đặc điểm của nhóm ĐNN, đặc biệt là loại đất chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp, rất quan trọng để xác định loại đất được bồi thường và mức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Nhóm đất ĐNN là một loại đất đặc thù trong tài nguyên đất quốc gia, đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển từ nền kinh tế nông nghiệp.
1.1.2 Khái quát về thu hồi nhómđất nông nghiệp
Theo Luật Đất đai 2013, việc Nhà nước thu hồi đất được định nghĩa là hành động của Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất (QSDĐ) từ những người đã được giao quyền hoặc thu hồi đất từ những người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai Như vậy, thu hồi đất nông nghiệp (ĐNN) là quyết định hành chính của Nhà nước nhằm thu lại QSDĐ nông nghiệp đã được giao cho các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Việc thu hồi nhóm đất nông nghiệp (ĐNN) đánh dấu sự chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai sơ cấp giữa Nhà nước và người sử dụng đất, đồng nghĩa với việc chấm dứt hiệu lực quyền sử dụng đất của người dân.
6 là tài sản không do con ngườ i t ạo ra, có tính cố định và không thể di d ời…
Luận văn Thạc sĩ của Đỗ Xuân Cảnh năm 2016 tại Hà Nội nghiên cứu về pháp luật bồi thường đất đai khi nhà nước thu hồi đất tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La, với trọng tâm là những thực tiễn và quy định hiện hành liên quan đến vấn đề này.
Trong luận văn Thạc sĩ luật học của Đỗ Xuân Cảnh, tác giả đã nghiên cứu về pháp luật bồi thường đất khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy trình và chính sách bồi thường, giúp hiểu rõ hơn về quyền lợi của người dân trong trường hợp thu hồi đất Tài liệu này là nguồn tham khảo quan trọng cho những ai quan tâm đến vấn đề pháp lý liên quan đến đất đai.
Trong luận văn Thạc sĩ luật học của Trần Phương Liên (2013), tác giả phân tích pháp luật về bồi thường và hỗ trợ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp (ĐNN) Bài viết nhấn mạnh rằng quyết định hành chính liên quan đến giao đất, cho thuê đất và các giao dịch như thừa kế, chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn đều có ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất (QSDĐ) của người dân Đặc biệt, bồi thường cho nhóm ĐNN có những đặc điểm riêng, như giá bồi thường khác nhau tùy thuộc vào loại đất Ngoài khoản bồi thường, người dân còn nhận được hỗ trợ tìm việc làm, ổn định đời sống, cũng như đào tạo nghề để cải thiện thu nhập.
Theo quy định Điều 66 Luật Đất đai 2013 chỉ có UBND cấp có thẩm quyền mới được thu hồi nhóm ĐNN để sử dụng vào các mục đích sau đây:
Việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng và an ninh bao gồm nhiều hoạt động quan trọng như xây dựng trụ sở làm việc, căn cứ quân sự, công trình phòng thủ quốc gia, ga và cảng quân sự Ngoài ra, còn có các công trình phục vụ cho quốc phòng, an ninh như kho tàng, trường bắn, thao trường, và bãi thử vũ khí Các cơ sở đào tạo, trung tâm huấn luyện, bệnh viện, nhà an dưỡng cho lực lượng vũ trang cũng nằm trong danh sách thu hồi đất, cùng với nhà công vụ và các cơ sở giam giữ, giáo dục do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quản lý.
- Thu hồi đất dểphát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng gồm:
+ Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất;
Các dự án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận và quyết định đầu tư, bao gồm xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu đô thị mới, và các dự án sử dụng vốn ODA, đều yêu cầu thu hồi đất Bên cạnh đó, các dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước và tổ chức cũng nằm trong diện này.
Trong luận văn Thạc sĩ luật học của Trần Phương Liên (2013), tác giả phân tích pháp luật về bồi thường và hỗ trợ cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, đồng thời chỉ ra thực trạng và hướng hoàn thiện Bài viết đề cập đến các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, cũng như các công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh đến các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia như giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, cùng với hệ thống dẫn, chứa xăng dầu, khí đốt, kho dự trữ quốc gia và các công trình thu gom, xử lý chất thải.
Khái quát chung về trách nhiệ m b ồi thường khi Nhà nướ c thu h ồi nhóm đất nông nghiệ p 14 1 Khái niệ m v ề b ồi thường khi Nhà nướ c thu h ồi nhóm đất nông nghiệ p 14 2 Sơ lượ c l ị ch s ử các quy đị nh c ủa pháp luậ t v ề b ồi thường khi Nhà nướ c thu h ồi nhóm đất nông nghiệ p15
1.2.1 Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm đất nông nghiệp
Thuật ngữ "bồi thường" trong pháp luật đất đai Việt Nam đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật từ trước Luật Đất đai năm 1987 Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong các văn bản quan trọng như Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung năm 1998, và Luật Đất đai 2003 cùng với các Nghị định hướng dẫn thi hành.
Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, Khoản
Theo Điều 3, khoản 12, việc bồi thường về đất được định nghĩa là Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất khi thu hồi Ngoài ra, hỗ trợ và bồi thường thiệt hại về tài sản được quy định tại mục 2 và mục 3 chương VI của văn bản pháp luật liên quan.
Theo quy định của pháp luật đất đai, khi Nhà nước thu hồi đất của người được cấp quyền sử dụng đất, những người nhận quyền sử dụng đất qua các giao dịch sẽ được bồi thường hợp lý về giá trị đất và tài sản trên đất.
Bài luận văn của Đỗ Xuân Cả (2016) nghiên cứu về pháp luật bồi thường đất đai khi nhà nước thu hồi tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La, nêu rõ thực tiễn thực hiện và những vấn đề liên quan đến quyền lợi của người dân trong quá trình thu hồi đất Tác giả đã phân tích các quy định pháp lý hiện hành và đưa ra những kiến nghị nhằm cải thiện công tác bồi thường, đảm bảo công bằng và minh bạch cho người bị thu hồi đất.
15 Điều 4, Điều 29, Điều 39, Điều 41, Điều 42…
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là nghĩa vụ của Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được giao hoặc cho thuê đất nhằm phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế Hành động này yêu cầu phải bù đắp những tổn thất về đất và tài sản trên đất do việc thu hồi gây ra, theo quy định của pháp luật đất đai.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm đất nông nghiệp (ĐNN) được định nghĩa là việc Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân được giao đất, cho thuê nhóm ĐNN phải đền bù cho người sử dụng đất về những thiệt hại liên quan đến đất và tài sản trên đất Việc bồi thường này nhằm mục đích phục vụ cho quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, và phải tuân theo các quy định của pháp luật đất đai.
1.2.2 Sơ lược lịch sử các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi nhóm đất nông nghiệp
Trước Hiến pháp năm 1980, Việt Nam đã công nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai, bao gồm sở hữu Nhà nước Thuật ngữ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật từ sớm, như Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 quy định về trưng dụng ruộng đất Hiến pháp năm 1959 đã xác định nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, nhấn mạnh rằng việc trưng mua, trưng dụng hoặc trưng thu chỉ được thực hiện khi thật cần thiết vì lợi ích chung, và phải có bồi thường thích đáng theo quy định của pháp luật.
Trong luận văn Thạc sĩ luật học của Trần Phương Liên (2013) tại Đại học Luật Hà Nội, tác giả đã phân tích pháp luật về bồi thường và hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Nghiên cứu này không chỉ nêu rõ thực trạng hiện tại mà còn đề xuất những hướng hoàn thiện cần thiết để cải thiện tình hình.
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành, Việt Nam chỉ công nhận một hình thức sở hữu đất đai duy nhất, đó là sở hữu toàn dân, với Nhà nước thực hiện quyền sở hữu này thay mặt cho Nhân dân Điều 28 của Hiến pháp cũng nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và bảo vệ quyền lợi của Nhân dân đối với đất đai.
Năm 1980, quy định về quyền trưng mua, trưng dụng tài sản của Nhà nước vì lợi ích chung đã được ghi nhận Để quản lý đất đai một cách toàn diện, ngày 29/12/1987, Luật Đất đai đầu tiên ra đời, tạo ra khung pháp lý quan trọng cho việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực này Điều 14 Luật Đất đai 1987 quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, bao gồm cả việc sử dụng đất cho nhu cầu của Nhà nước hoặc xã hội Bên cạnh đó, khoản 5, Điều 49 cũng xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi thu hồi đất, đảm bảo người dân được bồi thường thiệt hại thực tế và giao đất khác Luật Đất đai 1987 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc quản lý đất đai tại Việt Nam.
Theo Điều 14 của Luật Đất đai 1987, Nhà nước có quyền thu hồi đất trong các trường hợp cần thiết cho nhu cầu của Nhà nước hoặc xã hội Khoản 5, Điều 49 của luật này cũng quy định rõ trách nhiệm đền bù của Nhà nước khi đất đang sử dụng bị thu hồi, đảm bảo người dân được đền bù thiệt hại thực tế và được giao đất khác Sau khi Luật Đất đai 1987 có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp và đất rừng khi chuyển đổi mục đích sử dụng Tuy nhiên, trong giai đoạn này, người bị thu hồi đất không nhận được khoản tiền đền bù vì đất được giao để sử dụng mà không mất phí, và đất chỉ được xem như một phúc lợi xã hội.
Hiến pháp 1980 và Luật Đất đai 1987 không quy định giá đất, dẫn đến việc Nhà nước giao đất miễn phí cho những ai có nhu cầu sử dụng, trong khi thu hồi đất từ những người không còn nhu cầu Người sử dụng đất không được thực hiện giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất mà chỉ có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu trên đất Khoản tiền đền bù thiệt hại về đất phải chuyển cho Nhà nước, nhưng quy định về đền bù trong pháp luật đất đai còn sơ sài và thiếu cơ sở pháp lý cần thiết Chính sách đất đai thời kỳ này thể hiện sự bao cấp, với quan hệ đất đai được thiết lập qua phương pháp mệnh lệnh hành chính, khiến đất đai không được coi là tài sản có giá trị theo quy luật thị trường Do đó, vấn đề bồi thường cho người sử dụng đất chưa được chú trọng.
Sau khi chuyển sang thời kỳ“đổi mới” 20 , để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ngày
Vào ngày 14 tháng 7 năm 1993, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật Đất đai mới, thay thế cho Luật Đất đai năm 1987, có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 Luật Đất đai năm 1993 đã nêu rõ vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, cụ thể tại Điều 27 của luật này.
Theo quy định tại Điều 73 của Luật Đất đai 1993, khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích công cộng, người sử dụng đất có quyền được bồi thường thiệt hại Quy định này khẳng định quyền lợi của người sử dụng đất trong trường hợp bị thu hồi Đến Luật Đất đai 2003, các quy định về thu hồi đất và bồi thường đã được cụ thể hóa hơn với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân và tăng cường tính minh bạch trong quá trình thu hồi đất.
Sau 20 năm từ năm 1986, khía cạnh pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đã được nhấn mạnh với mục tiêu hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư, đồng thời đề cao nguyên tắc công khai, minh bạch Tuy nhiên, các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong Luật Đất đai năm 2003 chủ yếu được quy định ở Nghị định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định 69/2009/NĐ-CP, nhưng chưa thể hiện một cách thống nhất Để khắc phục những hạn chế này, việc ban hành Luật Đất đai sửa đổi là rất cần thiết, và Quốc hội Khoá XIII đã tiến hành xem xét vấn đề này tại kỳ họp thứ.
6 đã thông qua Luật Đất đai năm 2013 thay thế cho Luật Đất đai năm 2003.