CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TOÁN CHU KỲ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Những vấn đề cơ bản về tài sản cố định trong doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại tài sản cố định
Tài sản cố định (TSCĐ) là tư liệu lao động thiết yếu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, bao gồm ba yếu tố cơ bản: tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động TSCĐ không chỉ đánh giá quy mô và năng lực sản xuất của doanh nghiệp mà còn phản ánh sức mạnh thực lực của doanh nghiệp trong nền kinh tế Do đó, việc cải tiến, hoàn thiện và sử dụng hiệu quả TSCĐ là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế nói chung.
Nhận thức đúng đắn về vai trò của TSCĐ chính là lý luận đầu tiên xây dựng nên khái niệm về TSCĐ.
Tài sản cố định hữu hình là các tư liệu lao động có hình thái vật chất, đáp ứng tiêu chuẩn của loại tài sản này Những tài sản này tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu, bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải.
Để được công nhận là tài sản cố định (TSCĐ), tài sản mua về cần đáp ứng ba tiêu chuẩn theo Điều 3 của Thông tư 45/2013/TT-BTC Các tiêu chuẩn này bao gồm: phải có giá trị sử dụng lâu dài, phải được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phải có giá trị ghi sổ từ mức tối thiểu quy định.
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị 30.000.000 đồng trở lên.
- Có thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm trở lên.
Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng mang lại giá trị kinh tế, được đầu tư và đáp ứng tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình Chúng tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, bao gồm các chi phí liên quan đến đất sử dụng, chi phí quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế và bản quyền tác giả.
♦ Phân loại tài sản cố định.
Việc phân loại tài sản cố định là cần thiết để các doanh nghiệp dễ dàng quản lý và hạch toán tài sản Điều này cũng giúp thuận tiện trong việc tính toán và phân bổ khấu hao cho từng loại hình kinh doanh Tài sản cố định được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Theo hình thái biểu hiện:
Tài sản cố định được phân thành TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
TSCĐ hữu hình là các tư liệu lao động quan trọng có hình thức vật chất, có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài Chúng tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu.
TSCĐ vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng có giá trị rõ ràng, được doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất, kinh doanh hoặc cho thuê Các loại TSCĐ vô hình bao gồm quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, phần mềm máy tính và giấy phép nhượng quyền.
Theo tiêu thức này TSCĐ được phân thành TSCĐ tự có và TSCĐ đi thuê.
TSCĐ tự có là những tài sản cố định được hình thành từ việc xây dựng, mua sắm hoặc chế tạo bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, bao gồm ngân sách Nhà nước cấp, vốn vay ngân hàng, nguồn vốn tự bổ sung và vốn liên doanh.
* TSCĐ đi thuê lại được phân thành:
Tài sản cố định thuê tài chính là các tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê từ công ty cho thuê tài chính Sau khi kết thúc thời gian thuê, bên thuê có quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng Tổng số tiền thuê tài sản theo hợp đồng tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng.
Tài sản cố định thuê hoạt động được định nghĩa là mọi tài sản cố định (TSCĐ) được thuê mà không đáp ứng các tiêu chí quy định trước đó.
TSCĐ theo nguồn hình thành, cung cấp được các thông tin về cơ cấu nguồn vốn hình thành TSCĐ Đứng trên phương diện này TSCĐ được chia thành:
- TSCĐ được mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn được ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp.
- TSCĐ mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp (quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, ).
- TSCĐ nhận góp vốn liên doanh.
Theo công dụng và tình hình sử dụng, việc phân loại tài sản cố định (TSCĐ) là rất hữu ích cho việc phân bổ khấu hao vào các tài khoản chi phí phù hợp TSCĐ được phân thành nhiều loại dựa trên tiêu thức này.
Tài sản cố định (TSCĐ) trong sản xuất kinh doanh là những tài sản đang được sử dụng thực tế trong hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp Các TSCĐ này cần phải được trích khấu hao để tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, đảm bảo tính hợp lý và minh bạch trong quản lý tài chính.
TSCĐ (Tài sản cố định) được sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp và an ninh quốc phòng là những tài sản mà doanh nghiệp quản lý nhằm phục vụ các hoạt động phúc lợi, phát triển sự nghiệp và bảo đảm an ninh quốc phòng trong nội bộ doanh nghiệp.
TSCĐ chờ xử lý là những tài sản cố định không còn cần thiết, thừa so với nhu cầu sử dụng, hoặc không phù hợp với công nghệ mới Chúng bao gồm các tài sản hư hỏng chờ thanh lý, tài sản đang trong tranh chấp cần giải quyết Việc xử lý nhanh chóng các TSCĐ này là cần thiết để thu hồi vốn, phục vụ cho đầu tư đổi mới tài sản cố định.
TSCĐ được bảo quản và giữ hộ bởi Nhà nước bao gồm các tài sản cố định mà doanh nghiệp quản lý cho các đơn vị khác hoặc lưu giữ theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Nội dung công tác kiểm toán chu kỳ TSCĐ hữu hình trong kiểm toán Báo cáo tài chính
1.2.1 Khái quát chung về iểm toán Báo cáo tài chính
1.2.1.1 hái niệm kiểm toán Báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng theo cách hiểu chung nhất, nó được định nghĩa là quá trình đánh giá và xác nhận tính chính xác của các thông tin tài chính trong báo cáo tài chính của một tổ chức.
Kiểm toán báo cáo tài chính là quy trình do các kiểm toán viên độc lập thực hiện, nhằm thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán liên quan đến các báo cáo tài chính Mục tiêu của hoạt động này là kiểm tra và báo cáo mức độ trung thực của các báo cáo tài chính so với các tiêu chuẩn và chuẩn mực đã được thiết lập.
1.2.1.2 Mục tiêu kiểm toán Báo cáo tài chính
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, đối tượng kiểm toán bao gồm các tài liệu và số liệu kế toán như Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, và Thuyết minh báo cáo tài chính Những báo cáo này cung cấp thông tin tài chính quan trọng, phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp qua các chỉ tiêu giá trị, tình hình tài chính, và kết quả kinh doanh Chúng cũng bao gồm thông tin cần thiết để các nhà quản lý, chính phủ, ngân hàng, nhà đầu tư, và các bên liên quan khác có thể phân tích và đánh giá chính xác tình hình và kết quả kinh doanh của đơn vị.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200, mục tiêu của kiểm toán BCTC là:
Giúp kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác nhận rằng báo cáo tài chính được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, tuân thủ các quy định pháp luật liên quan, đồng thời phản ánh một cách trung thực và hợp lý các khía cạnh trọng yếu.
Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp đơn vị được kiểm toán nhận diện rõ ràng các tồn tại và sai sót, từ đó khắc phục để nâng cao chất lượng thông tin tài chính.
Các mục tiêu kiểm toán cụ thể:
Khi thực hiện kiểm toán, KTV cần xác minh tính chính xác và hợp lý của các ghi chép kế toán, đảm bảo rằng thông tin được cung cấp dựa trên các căn cứ hợp lý Điều này bao gồm việc xác định xem các nghiệp vụ phát sinh có thực sự diễn ra hay không, nhằm đảm bảo tính minh bạch và đáng tin cậy của báo cáo tài chính.
KTV cần kiểm tra tính đầy đủ của các nghiệp vụ và sự kiện kinh tế phát sinh trong kỳ kế toán, đảm bảo rằng tất cả đều được ghi chép chính xác vào sổ sách và báo cáo kế toán.
Kỹ thuật viên kiểm toán (KTV) cần phải thực hiện việc đánh giá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã được ghi chép vào sổ và báo cáo kế toán, nhằm đảm bảo rằng giá trị của chúng được xác định một cách chính xác.
Kỹ thuật viên kế toán (KTV) cần xác minh tính hợp lý của việc phân loại các giao dịch đã được ghi nhận trong hệ thống tài khoản kế toán và báo cáo kế toán.
KTV cần xác minh và kiểm định các sự kiện, nghiệp vụ phát sinh trong kỳ để đảm bảo rằng chúng được ghi chép và báo cáo đúng thời điểm phát sinh Việc này rất quan trọng nhằm duy trì tính chính xác và minh bạch trong báo cáo tài chính.
Kỹ thuật viên (KTV) cần kiểm tra và xác minh rằng các giao dịch phát sinh được kế toán ghi chép liên tục và chính xác Đồng thời, việc cộng dồn và chuyển sổ phải được thực hiện theo đúng quy định hiện hành.
Khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên (KTV) cần đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ và giao dịch đều được ghi chép và báo cáo chính xác trên hệ thống sổ sách kế toán Đồng thời, KTV cũng phải xác minh tính hợp pháp và hợp thức của các sổ sách và báo cáo kế toán này.
1.2.2 Mục tiêu và căn cứ iểm toán chu ỳ Tài sản cố định
1.2.2.1 Mục tiêu kiểm toán chu kỳ Tài sản cố định
Mục đích chung của kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) là xác nhận độ tin cậy của các thông tin tài chính được kiểm toán Trong khi đó, mục tiêu cụ thể của kiểm toán tài sản cố định (TSCĐ) là thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp để xác nhận mức độ tin cậy của các thông tin tài chính liên quan, bao gồm nguyên giá, giá trị hao mòn và các khoản chi phí liên quan như chi phí khấu hao trong sản xuất kinh doanh Những thông tin này ảnh hưởng đến các chỉ tiêu lợi nhuận, chi phí và kết quả hoạt động kinh doanh, được trình bày trong các báo cáo tài chính hàng năm của đơn vị Dựa trên mục đích kiểm toán TSCĐ, các mục tiêu kiểm toán cụ thể sẽ được xác định cho các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ.
Sự phát sinh: Tất cả các nghiệp vụ TSCĐ được ghi sổ trong kỳ là phát sinh thực tế, không có các nghiệp vụ ghi khống.
Để đảm bảo tính chính xác trong quản lý tài sản cố định (TSCĐ), việc tính toán và đánh giá là rất quan trọng Các nghiệp vụ liên quan đến TSCĐ cần được xác định theo đúng nguyên tắc và chế độ kế toán hiện hành, nhằm đảm bảo không có sai sót trong quá trình tính toán.
- Đầy đủ: các nghiệp vụ TSCĐ phát sinh trong kỳ đều được phản ánh, theo dõi đầy đủ trên các sổ kế toán.
Trong kỳ, các nghiệp vụ tài sản cố định (TSCĐ) cần được phân loại chính xác theo quy định của các chuẩn mực và chế độ kế toán liên quan, cũng như các quy định đặc thù của doanh nghiệp Đảm bảo rằng các nghiệp vụ này được hạch toán theo đúng trình tự và phương pháp kế toán là rất quan trọng để duy trì tính chính xác và minh bạch trong báo cáo tài chính.
- Đúng kỳ: các nghiệp vụ TSCĐ đều được hạch toán đúng kỳ phát sinh theo cơ sở dồn tích… Đối với số dư các Tài khoản TSCĐ: