1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính – lý luận và thực tiễn

46 17 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xác Định Tư Cách Đương Sự Trong Vụ Án Hành Chính – Lý Luận Và Thực Tiễn
Thể loại tiểu luận
Định dạng
Số trang 46
Dung lượng 277 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (1)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (2)
  • 3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài (4)
  • 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài và phương pháp nghiên cứu đề tài (4)
  • 5. Điểm mới của tiểu luận (4)
  • 6. Kết cấu chuyên đề (4)
  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH (6)
    • 1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam (6)
      • 2.1 Khái niệm vụ án hành chính (9)
      • 2.2. Khái niệm đương sự trong vụ án hành chính (11)
        • 2.2.1. Người khởi kiện (13)
        • 2.2.2. Người bị kiện (14)
        • 2.2.3 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (16)
      • 2.3 Người đại diện trong vụ án hành chính (16)
    • 3. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi hành chính (19)
      • 3.1. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính của đương sự (20)
      • 3.2. Năng lực hành vi hành chính của đương sự (20)
    • 4. Quyền và nghĩa vụ của đương sự (21)
      • 4.1. Quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện (22)
      • 4.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện (22)
      • 4.3. Quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (23)
  • CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LÝ TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH (24)
    • 1. Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết vụ án hành chính (24)
    • 2. Xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (25)
      • 2.1. Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (25)
      • 2.2. Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (29)
      • 2.3. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (30)
      • 2.4. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức (30)
    • 3. Xác định người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính (31)
      • 3.1. Xác định người khởi kiện trong vụ án hành chính (31)
      • 3.2. Xác định người bị kiện trong vụ án hành chính (32)
      • 3.3. Xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính (33)
  • CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH (35)
    • 1. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính trong việc xác định tư các đương sự trong vụ án hành chính (35)
    • 2. Một số kiến nghị nhằm xác định đúng và đầy đủ tư cách tố tụng của đương sự trong vụ án hành chính (39)
      • 2.1 Nguyên nhân gây ra những khó khăn hạn chế trong việc xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính (39)
      • 2.2. Một số kiến nghị (40)
  • KẾT LUẬN (42)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước khi Luật TTHC 2015 được ban hành, đã có nhiều bài viết đề cập đến vai trò của đương sự trong vụ án hành chính, phân tích cả lý luận và thực tiễn Những vấn đề liên quan đến việc đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính cũng đã được thảo luận sâu sắc trong các tài liệu này.

Việt Nam” – TS Nguyễn Văn Thanh và LG Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp Hà Nội năm 2004.

Quyền tư pháp tại Việt Nam hiện nay được thực hiện thông qua hệ thống tòa án nhân dân, do PGS.TS Nguyễn Đức Bình, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, nhấn mạnh trong bài viết của mình Ông chỉ ra rằng việc thực hiện quyền tư pháp không chỉ đảm bảo công lý mà còn góp phần duy trì trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của công dân Tòa án nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp và bảo vệ pháp luật, đồng thời cần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Chuyên đề khoa học xét xử tập 3 của Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao tập trung vào thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính tại thành phố Hà Nội, nêu rõ những khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị từ TS Nguyễn Văn Sơn, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội Bài viết cũng đề cập đến một số vấn đề liên quan đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính trong giai đoạn hiện nay.

Bài viết "Một số vấn đề bất cập của Luật tố tụng hành chính – Thực trạng và kiến nghị" của tác giả Đinh Văn Sơn, Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ 1 tháng 3/2015 (số 5), phân tích những hạn chế hiện tại của Luật tố tụng hành chính và đề xuất các giải pháp cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật này Nội dung bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện hệ thống pháp lý để bảo đảm quyền lợi của công dân và sự công bằng trong quá trình tố tụng hành chính.

Các công trình nghiên cứu nêu trên tập trung vào việc phân tích thẩm quyền của Tòa án và những khó khăn trong thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính Kết quả từ các nghiên cứu này là nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho tiểu luận.

Kể từ khi Luật TTHC 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, chưa có nghiên cứu cập nhật nào về xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính, cả lý luận và thực tiễn Việc nghiên cứu chuyên đề này là cần thiết, đặc biệt khi BLDS 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, tạo ra nhiều vấn đề cần xem xét về điều kiện tham gia tố tụng và năng lực chủ thể của đương sự Điều này dẫn đến nhiều khó khăn và bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật hiện nay, cũng như những vấn đề mà pháp luật hành chính chưa dự liệu được trong bối cảnh các quan hệ xã hội không ngừng thay đổi.

Mục tiêu nghiên cứu đề tài

Nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến đương sự trong giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân nhằm phân tích những thiếu sót và bất cập hiện có Từ đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện cả lý luận và hệ thống pháp luật về đương sự trong lĩnh vực này.

Bài viết này làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến đương sự trong vụ án hành chính, bao gồm việc tìm hiểu khái niệm, tư cách và bản chất pháp lý của đương sự Qua đó, chúng ta có cái nhìn tổng thể về vai trò và vị trí của đương sự trong quá trình tố tụng hành chính.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài và phương pháp nghiên cứu đề tài

Tiểu luận này nghiên cứu các vấn đề lý luận và quy định pháp luật liên quan đến tư cách của đương sự trong việc giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Bên cạnh đó, bài viết cũng chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành phát sinh trong thực tiễn, từ đó đề xuất một số định hướng nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về tư cách của đương sự.

Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận là tổng hợp các phương pháp như duy vật biện chứng, phân tích và tổng hợp, so sánh và chứng minh.

Điểm mới của tiểu luận

Tiểu luận này phân tích lý luận và pháp luật về việc xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính, cập nhật những vấn đề hiện tại Bằng cách đánh giá thực tế qua các vụ án cụ thể, bài viết chỉ ra những hạn chế và khó khăn mà Tòa án gặp phải do Luật TTHC 2010 và các văn bản pháp luật liên quan như BLDS 2005 Cuối cùng, tiểu luận đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hành chính trong bối cảnh hiện nay.

Kết cấu chuyên đề

Tiểu luận được cấu trúc thành ba chương, bao gồm phần mở đầu, nội dung và kết luận, kèm theo danh mục từ viết tắt và tài liệu tham khảo, phù hợp với phạm vi nghiên cứu đã đề ra.

Trong Chương 1, bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về tư cách đương sự trong vụ án hành chính, nhấn mạnh vai trò và ý nghĩa của các bên liên quan trong quá trình tố tụng Chương 2 tập trung vào các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tư cách đương sự, làm rõ tiêu chí và điều kiện cần thiết để các bên tham gia vụ án hành chính Những quy định này không chỉ đảm bảo tính hợp pháp mà còn bảo vệ quyền lợi của các đương sự trong hệ thống pháp luật.

Chương 3: Thực tiễn và kiến nghị về việc xác định tư cách đương sự trong vụ án hành chính.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hành chính ở Việt Nam

Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng đã chú trọng đến việc giải quyết khiếu nại và tố cáo của nhân dân, bao gồm cả khiếu kiện hành chính Điều này thể hiện rõ trong tinh thần của Hiến pháp 1946, khẳng định quyền lợi của công dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Vào tháng 11 năm 1945, Ban thanh tra đặc biệt được thành lập với nhiệm vụ giám sát việc thi hành pháp luật và chính sách Nhà nước, đồng thời giải quyết khiếu nại của công dân Sắc lệnh số 04/SLT năm 1957 về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp đã trao quyền cho Tòa án giải quyết khiếu kiện liên quan đến danh sách cử tri (Điều 15) Tuy nhiên, trong giai đoạn này, pháp luật Việt Nam chỉ công nhận các khiếu nại hành chính mà không thừa nhận khiếu kiện giữa công dân, cơ quan, tổ chức với các cơ quan công quyền, và các khiếu nại này được giải quyết theo thủ tục hành chính thay vì qua con đường tố tụng tại Tòa án.

Từ đầu thập niên 90, nhu cầu thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập đã trở nên cấp thiết để giải quyết tranh chấp hành chính Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII vào năm 1995 đã quyết định thành lập Tòa án hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân Luật sửa đổi bổ sung năm 1995 đã giao cho Tòa án nhân dân chức năng xét xử các vụ án hành chính, đánh dấu sự ra đời của ngành luật hành chính tại Việt Nam Để đảm bảo hoạt động của Tòa án hành chính, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được thông qua vào năm 1996, tuy nhiên, trong quá trình thực thi, nhiều bất cập và mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác đã xuất hiện Những hạn chế này ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính, làm giảm lòng tin của người dân vào cơ chế này Do đó, việc hoàn thiện pháp luật Tố tụng hành chính là cần thiết, dẫn đến sự ra đời của Luật TTHC năm 2010, có hiệu lực từ 01/7/2010, nhằm khắc phục những hạn chế trước đó và bảo đảm quyền lợi cho các bên liên quan trong quan hệ tố tụng hành chính.

Luật Tố tụng hành chính 2015 ra đời nhằm khắc phục những hạn chế của Luật TTHC 2010, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Mặc dù Luật TTHC 2010 đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập trong việc áp dụng, như xác định đối tượng tham gia tố tụng, thủ tục đối thoại và cơ chế bảo đảm thi hành bản án Việc Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015 vào ngày 24 và 25 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực từ 01/01/2017 và 01/07/2016, đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc kiện toàn hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước.

Việc ban hành quy định pháp luật tố tụng hành chính đã khẳng định vai trò quan trọng trong giải quyết tranh chấp hành chính, góp phần vào cải cách nền hành chính và tư pháp Điều này buộc các cơ quan hành chính nâng cao năng lực, hoàn thiện thủ tục và phương thức quản lý xã hội, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của mình.

2 Khái niệm vụ án hành chính và đương sự trong vụ án hành chính.

2.1 Khái niệm vụ án hành chính

Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức không đồng ý với quyết định hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, họ có quyền yêu cầu xem xét lại Nếu không đạt được sự thỏa mãn, họ có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục hành chính Từ đó, xảy ra tranh chấp giữa các bên với cơ quan nhà nước tại Tòa án, được gọi là vụ án hành chính.

Vụ án hành chính là khái niệm chỉ những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính mà họ cho rằng xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của mình Theo từ điển Tiếng Việt, "vụ" đề cập đến các sự việc cần giải quyết, trong khi "án" liên quan đến tranh chấp cần được xem xét trước Tòa án Do đó, vụ án hành chính là quá trình pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trước Tòa án có thẩm quyền.

Vụ án hành chính được định nghĩa là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính khi cá nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đầy đủ, vì để hình thành vụ án hành chính, cần có sự thụ lý đơn khởi kiện của Tòa án Tòa án chỉ thụ lý đơn khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, không chỉ dựa vào hành vi khởi kiện của cá nhân hoặc tổ chức khi cho rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm bởi quyết định hoặc hành vi hành chính.

Vụ án hành chính được định nghĩa trong bài giảng Luật tố tụng hành chính của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh là trường hợp phát sinh khi cá nhân hoặc tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, và Tòa án sẽ thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật.

Vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có hai điều kiện: thứ nhất, phải có việc khởi kiện từ cá nhân, cơ quan, tổ chức; thứ hai, đơn khởi kiện phải được Tòa án thụ lý Vụ án hành chính được giải quyết khi có tranh chấp giữa các chủ thể quản lý nhà nước và cá nhân, tổ chức Khác với các vụ án dân sự, kinh tế hay lao động, đối tượng tranh chấp trong vụ án hành chính chủ yếu là tính hợp pháp của quyết định và hành vi hành chính, không liên quan trực tiếp đến quyền tài sản hay quyền nhân thân.

Trong vụ án hành chính, người bị kiện luôn là cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, chủ yếu là cơ quan hành chính Ngược lại, người khởi kiện là cá nhân hoặc tổ chức bị ảnh hưởng bởi quyết định hoặc hành vi hành chính Do đó, các bên trong vụ án hành chính được gọi là người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, thay vì nguyên đơn và bị đơn như trong các vụ án phi hình sự khác.

2.2 Khái niệm đương sự trong vụ án hành chính Đương sự là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận ngành luật tố tụng Việc xác định không đúng tư cách đương sự sẽ là căn cứ để hủy các bản án, quyết định của Tòa án Việc xác định đúng tư cách đương sự sẽ xác định đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự

Việc giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án bắt nguồn từ yêu cầu khởi kiện của các đương sự, vì không có đương sự thì không thể có vụ án Đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật mà Tòa án xem xét, do đó họ có quyền quyết định quyền lợi của mình trong quá trình tố tụng Hành động của các đương sự có thể dẫn đến việc phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng.

Cá nhân là chủ thể quan trọng nhất trong các quan hệ xã hội, thể hiện tổng hòa các mối quan hệ này Con người là trung tâm của các chính sách kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước phục vụ, nhằm mục đích phục vụ và nâng cao đời sống con người Trong các quan hệ tài sản và nhân thân, cá nhân đóng vai trò là chủ thể nguyên sinh, với các chủ thể khác tham gia qua hành vi của con người Để tham gia vào các quan hệ pháp luật, cá nhân cần có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 và Luật tố tụng hành chính 2015 Đương sự là cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự hoặc có quy định khác Đối với những người có hạn chế năng lực hành vi, năng lực hành vi tố tụng hành chính sẽ được xác định theo quy định của Tòa án, đánh dấu sự khác biệt của Luật TTHC 2015 so với các quy định trước đó.

Theo khoản 11 Điều 3 của Luật tố tụng hành chính năm 2015, cơ quan và tổ chức bao gồm nhiều loại hình như cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập, và các tổ chức khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 11 Điều 3 này thì có thể hiểu “cơ quan” là cơ quan Nhà nước.

Năng lực pháp luật tố tụng hành chính và năng lực hành vi hành chính

3.1 Năng lực pháp luật tố tụng hành chính của đương sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật tố tụng hành chính 2015 thì:

Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp Năng lực này xuất hiện từ khi công dân ra đời và chấm dứt khi qua đời, trong khi đối với cơ quan, tổ chức, nó phát sinh từ thời điểm thành lập và kết thúc khi không còn tồn tại Pháp luật đảm bảo mọi người đều có năng lực pháp luật tố tụng hành chính như nhau, khác với năng lực hành vi hành chính.

3.2 Năng lực hành vi hành chính của đương sự

Khoản 2 Điều 54 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định “Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng hành chính”.

Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng tham gia tố tụng của cá nhân hoặc tổ chức, bao gồm quyền và nghĩa vụ tố tụng Đương sự phải từ đủ mười tám tuổi và có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự hoặc theo quy định khác của pháp luật Đối với những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, năng lực hành vi tố tụng sẽ được xác định theo quyết định của Tòa án Những đương sự chưa thành niên, mất năng lực hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi, hoặc gặp khó khăn trong nhận thức sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ thông qua người đại diện theo pháp luật Các cơ quan, tổ chức cũng thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện hợp pháp.

Quyền và nghĩa vụ của đương sự

Theo Điều 55 Luật tố tụng hành chính năm 2015, đương sự trong vụ án hành chính có các quyền và nghĩa vụ quan trọng Đương sự cần tôn trọng Tòa án và chấp hành nội quy phiên tòa, nộp án phí và lệ phí theo quy định Họ có quyền giữ nguyên, thay đổi hoặc rút yêu cầu, đồng thời phải cung cấp địa chỉ cư trú chính xác và thông báo kịp thời về bất kỳ thay đổi nào Đương sự cũng có nghĩa vụ cung cấp tài liệu và chứng cứ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu cần thiết, và đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ Họ được quyền ghi chép, sao chụp tài liệu do bên khác hoặc Tòa án cung cấp, nộp bản sao đơn khởi kiện, và đề nghị Tòa án quyết định về biện pháp khẩn cấp Ngoài ra, đương sự có quyền tham gia phiên tòa, phiên họp, tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi, và phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự có quyền đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, và đưa ra câu hỏi liên quan đến vụ án Họ cũng có quyền tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về chứng cứ và pháp luật áp dụng, cũng như yêu cầu cấp trích lục bản án, quyết định của Tòa án Ngoài ra, đương sự có quyền kháng cáo, khiếu nại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Việc chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án là nghĩa vụ bắt buộc, đồng thời đương sự cần sử dụng quyền của mình một cách thiện chí, không lạm dụng để cản trở hoạt động tố tụng Ngoài những quyền và nghĩa vụ chung theo Điều 55 Luật tố tụng hành chính 2015, đương sự còn có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt khác theo quy định của pháp luật.

4.1 Quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện

Theo Điều 56 Luật Tố tụng hành chính 2015, người khởi kiện có quyền và nghĩa vụ như sau: được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo Điều 55 của luật; có khả năng thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện trong thời hạn còn hiệu lực; và có quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

4.2 Quyền và nghĩa vụ của người bị kiện

Theo Điều 57 Luật tố tụng hành chính 2015, người bị kiện có quyền và nghĩa vụ bao gồm: được thông báo về việc bị kiện, chứng minh tính đúng đắn và hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khởi kiện, cũng như quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ các quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, và quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, cũng như dừng và khắc phục hành vi hành chính không hợp pháp.

4.3 Quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Theo Điều 58 Luật tố tụng hành chính 2015, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể yêu cầu độc lập và tham gia tố tụng với bên khởi kiện hoặc bên bị kiện Nếu có yêu cầu độc lập, họ sẽ có quyền và nghĩa vụ như người khởi kiện theo Điều 56 Trong trường hợp tham gia với bên khởi kiện hoặc chỉ có quyền lợi, họ sẽ tuân theo quy định tại Điều 55 Ngược lại, nếu tham gia với bên bị kiện hoặc chỉ có nghĩa vụ, họ sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ theo khoản 1 và khoản 2 Điều 57.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính là những cá nhân không khởi kiện hoặc bị kiện, nhưng quyền lợi và nghĩa vụ của họ bị ảnh hưởng bởi vụ án Nếu họ có yêu cầu độc lập, họ sẽ có quyền và nghĩa vụ tương tự như người khởi kiện Trong trường hợp tham gia tố tụng với bên khởi kiện hoặc chỉ có quyền lợi, họ sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ chung Ngược lại, nếu tham gia với bên bị kiện hoặc chỉ có nghĩa vụ, họ sẽ có các quyền theo quy định tại Điều 57, khoản 1 và khoản 2.

Việc xác định quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hành chính là rất quan trọng, vì khi các đương sự thực hiện quyền theo luật tố tụng hành chính, điều này có thể làm thay đổi địa vị pháp lý của họ hoặc ảnh hưởng đến nội dung vụ án so với yêu cầu khởi kiện ban đầu.

QUY ĐỊNH PHÁP LÝ TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết vụ án hành chính

Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực với sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp Quyền tư pháp, đặc biệt là quyền xét xử, là một chức năng quan trọng của Nhà nước và được giao cho Toà án nhân dân, đóng vai trò trung tâm trong hệ thống tư pháp Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm Các cơ quan xét xử bao gồm Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự và các Toà án khác theo quy định của pháp luật Toà án nhân dân giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc.

Tòa án nhân dân là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con người, đồng thời là công cụ hiệu quả trong việc bảo vệ pháp luật và đấu tranh chống tội phạm Mỗi cơ quan nhà nước hoạt động trong phạm vi thẩm quyền nhất định theo quy định của pháp luật, không được vượt ra ngoài giới hạn đó Tòa án, là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp chủ yếu, với chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các vụ việc khác nhằm bảo vệ pháp luật và đảm bảo sự công bằng xã hội.

Xác định đối tượng khởi kiện vụ án hành chính

Theo Luật tố tụng hành chính, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính bao gồm quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về xử lý vụ việc cạnh tranh, và danh sách cử tri cho bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân Những quyết định này phải liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.

2.1 Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính

Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện phổ biến và có vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa hành chính Đây là hình thức hoạt động chủ yếu của các chủ thể quản lý nhà nước Theo Điều 3, khoản 1 Luật Tố tụng hành chính, quyết định hành chính được định nghĩa là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính ban hành, liên quan đến vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính và áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể Để được chấp nhận là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, quyết định này phải thỏa mãn các đặc điểm nhất định.

Chủ thể ban hành quyết định hành chính không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước mà còn bao gồm các cơ quan, tổ chức khác và cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan này, thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong quản lý hành chính Điều này cho thấy rằng, ngoài cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tư pháp, lập pháp và tổ chức được Nhà nước trao quyền cũng có khả năng ban hành quyết định hành chính, từ đó thay đổi nhận thức rằng chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới có quyền này.

Hình thức cơ bản của quản lý hành chính nhà nước bao gồm việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa các Luật và Nghị quyết, thực hiện chức năng chấp hành và điều hành các quan hệ xã hội Một hình thức quan trọng khác là ban hành quyết định hành chính, tác động trực tiếp đến quyền lợi của công dân và có tính ràng buộc pháp lý Quyết định này có thể xuất hiện từ các cơ quan hành chính nhà nước và có thể dẫn đến khiếu kiện nếu gây thiệt hại cho quyền lợi của công dân Đặc điểm này giúp phân biệt quyết định hành chính với các quyết định thực tế khác trong quản lý hành chính Theo quy định hiện hành, quyết định giải quyết khiếu nại cũng được coi là quyết định hành chính nếu có biện pháp hành chính mới, ví dụ như thay đổi nội dung của quyết định hành chính ban đầu.

Theo Điều 28 Luật tố tụng hành chính 2010 và Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, quyết định hành chính có thể được khởi kiện tại Tòa án nếu nó là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành, nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm Các văn bản không thuộc đối tượng khởi kiện bao gồm thông báo yêu cầu bổ sung hồ sơ và quyết định giải quyết khiếu nại không có nội dung sửa đổi Tuy nhiên, quyết định giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính vẫn có thể được khởi kiện, vì nó là quyết định cụ thể liên quan đến hoạt động quản lý hành chính.

Quyết định hành chính được ban hành trong khuôn khổ thực hiện quyền lực hành chính, thể hiện ý chí đơn phương giữa nhà nước và công dân, áp dụng cho các trường hợp cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức hoặc nhóm người nhất định Đặc điểm này giúp phân biệt quyết định hành chính cá biệt với các loại quyết định hành chính khác như quyết định mang tính quy phạm, quyết định nội bộ công sở, và các quyết định hành chính chủ đạo, từ đó xác định rõ hơn đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính.

Theo Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015, quyết định hành chính được định nghĩa là một quy định, không chỉ phụ thuộc vào hình thức chuẩn mực của một “quyết định” Tuy nhiên, hình thức văn bản vẫn có ảnh hưởng đến nội dung, vì theo quy định pháp luật, hình thức văn bản phải chứa đựng nội dung phù hợp, phản ánh bản chất pháp lý của nó.

Mặc dù có nhiều hình thức văn bản khác nhau như công văn, thông báo, kết luận, quyết định hành chính vẫn cần được xác định rõ ràng để đảm bảo quyền khiếu kiện của công dân trong các vụ án hành chính Việc nhận diện đúng các quyết định hành chính sẽ giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân.

Quyết định hành chính bị kiện là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính khi thuộc quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật TTHC, có khả năng phát sinh, thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân Ngoài ra, quyết định này còn có thể tạo ra nghĩa vụ và ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Khi xác định quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện của Toà án, cần dựa vào các đặc điểm, chủ yếu là nội dung và mục đích của quyết định đó Những đặc điểm này không chỉ giúp người khiếu kiện dễ dàng nhận diện đối tượng mà còn hỗ trợ Toà án xác định đúng thẩm quyền giải quyết và căn cứ để đưa ra phán quyết.

2.2 Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền không chỉ thể hiện qua việc ban hành quyết định hành chính mà còn thông qua các hành vi cụ thể trong thực tiễn quản lý Hành vi hành chính được coi là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính, được định nghĩa tại khoản 3, Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015, là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật.

Hành vi hành chính bị kiện là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính, theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật TTHC Hành vi này có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

2.3 Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh

Quyết định giải quyết khiếu nại về xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc thẩm quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính được đưa ra bởi Hội đồng cạnh tranh của Bộ trưởng Bộ Công Thương, theo quy định tại mục 7 Chương V của Luật cạnh tranh.

Hội đồng cạnh tranh đã đưa ra quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, nhằm xem xét và xử lý quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp cụ thể này.

Bộ trưởng Bộ Công thương đã ra quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, trong bối cảnh vụ việc cạnh tranh có liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Xác định người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính

vụ liên quan trong vụ án hành chính.

Việc xác định đúng đối tượng khởi kiện và tư cách đương sự trong vụ án hành chính là rất quan trọng, giúp đảm bảo công tác xét xử tuân thủ pháp luật, từ đó giảm thiểu khả năng án bị hủy hoặc sửa đổi.

3.1 Xác định người khởi kiện trong vụ án hành chính

Cá nhân, cơ quan, tổ chức là người khởi kiện trong vụ ánh hành chính khi thỏa mãn đủ 2 điều kiện:

Người khởi kiện cần có năng lực chủ thể để tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính, theo quy định tại Điều 54 của Luật Tố tụng Hành chính.

2015 như đã phân tích ở trên

Người khởi kiện phải là cá nhân hoặc tổ chức bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, hoặc quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến xử lý vụ việc cạnh tranh.

Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật, buộc thôi việc hoặc quyết định giải quyết khiếu nại để có quyền khởi kiện vụ án hành chính Đối với các cơ quan, tổ chức có tên trong quyết định hành chính, việc xác định quyền khởi kiện tương đối dễ dàng Tuy nhiên, đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tên trong quyết định, Tòa án cần xem xét tài liệu, chứng cứ để xác định quyền và lợi ích hợp pháp của họ có bị xâm phạm trực tiếp hay không.

Ủy ban nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đoàn Thị Thiếu với diện tích 590m².

Ủy ban nhân dân huyện Vân Canh đã cấp một phần quyền sử dụng đất của gia đình bà Thiếu, dẫn đến tranh chấp giữa bà và những người sống liền kề.

Bà Thiếu đã khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì cho rằng hành động này đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

3.2 Xác định người bị kiện trong vụ án hành chính

Đối tượng khởi kiện và quy phạm pháp luật sẽ xác định người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó.

Người bị kiện là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức có quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khởi kiện Để xác định đúng đối tượng bị kiện, cần dựa vào quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc Trong trường hợp có nhiều luật cùng quy định thẩm quyền liên quan đến quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trong một lĩnh vực quản lý, việc xác định người bị kiện là cá nhân hay cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào luật chuyên ngành.

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án, việc xác định người bị kiện thường gặp nhiều thiếu sót Thẩm phán cần chú ý đến tư cách của người bị kiện khi nghiên cứu hồ sơ để đảm bảo tính chính xác và công bằng trong quá trình xét xử.

- Người bị kiện là cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính:

+ Các khiếu kiện về xử phạt vi phạm hành chính.

+ Quyết định giải quyết khiếu nại có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính.

+ Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai.

+ Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Người bị kiện trong các vụ tranh chấp thường là cơ quan hoặc tổ chức, bao gồm những khiếu kiện liên quan đến quản lý đất đai như thu hồi đất, cấp và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cưỡng chế thu hồi đất, cũng như bồi thường khi thu hồi đất Ngoài ra, các khiếu kiện về quản lý thuế cũng nằm trong phạm vi này.

3.3 Xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là những cá nhân hoặc tổ chức mà việc giải quyết khiếu kiện có thể tạo ra nghĩa vụ mới hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi hiện tại của họ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có năng lực chủ thể để tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính.

Trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập, họ cần thực hiện thủ tục khởi kiện giống như người khởi kiện chính Nếu đương sự xác định các vấn đề trong đơn khởi kiện chưa chính xác, thẩm phán có trách nhiệm thông báo để yêu cầu đương sự sửa chữa, bổ sung đơn cho phù hợp với quy định pháp luật Mặc dù Luật tố tụng hành chính không quy định việc sửa chữa, bổ sung đơn khởi kiện sau khi Tòa án đã thụ lý, nhưng thực tế, các thẩm phán nên linh hoạt trong việc yêu cầu đương sự điều chỉnh đơn khởi kiện để đảm bảo tính hợp pháp cho vụ án, ngay cả khi vụ án đã được thụ lý.

THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Ngày đăng: 28/12/2021, 13:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam” – TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp Hà Nội năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ởViệt Nam
Nhà XB: Nxb Tư pháp HàNội năm 2004
4. “Một số vấn đề bất cập của Luật tố tụng hành chính – Thực trạng và kiến nghị” tác giả Đinh Văn Sơn – Tòa án nhân dân huyện Di Linh – tỉnh Lâm Đồng, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ 1 tháng 3/2015 (số 5) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề bất cập của Luật tố tụng hành chính – Thực trạng vàkiến nghị
6. “Tài liệu các chuyên đề về sai sót trong công tác giải quyết án hình sự, dân sự, hành chính” dùng cho khóa 4 Đào tạo nghiệp vụ xét xử năm 2017 của Học Viện Tòa án Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu các chuyên đề về sai sót trong công tác giải quyết án hình sự,dân sự, hành chính
7. Tập bài giảng cho khóa 4 nghiệp vụ xét xử của Học Viện Tòa án năm 2017 “Kỹ năng giải quyết vụ án hành chính” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ năng giải quyết vụ án hành chính
9. “Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay” PGS.TS. Nguyễn Đức Bình – Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ 1 tháng 3/2014 (số 5) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay
2. Hiến pháp 1946, 1959, 1992, 2013; Luật TTHC 2010, 2015. Bộ luật Dân sự 2015 Khác
5. Những nội dung mới của Luật TTHC 2015 Thạc sỹ Bùi Ngọc Hòa – Phó chánh án thường trực Tòa án nhân dân tối cao Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w