1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

“Thực trạng hoạt động định giá tài sản trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự”

37 24 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 87,07 KB
File đính kèm Thực trạng hoạt động định giá.rar (83 KB)

Cấu trúc

  • 1. Khái niệm định giá và định giá tài sản theo tố tụng dân sự (3)
  • 2. Khái quát các quy định pháp luật về định giá tài sản trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự (4)
  • 3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đến trước khi (8)
  • 4. Định giá tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (14)
  • Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ 1. Những bất cập, tồn tại của hoạt động định giá tài sản trong các vụ việc dân sự (23)
    • 2. Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, vướng mắc (31)
    • 2. Giải pháp, kiến nghị (32)

Nội dung

Khái niệm định giá và định giá tài sản theo tố tụng dân sự

Định giá là quá trình mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh quy định giá cho hàng hóa và dịch vụ, thể hiện ý chí của các bên liên quan Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh và các Bộ trưởng có trách nhiệm định giá trong phạm vi quyền hạn của mình Giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quy định cần phải phù hợp với nguyên tắc giá thị trường, nơi giá cả được hình thành từ các yếu tố thị trường tại một thời điểm và địa điểm nhất định Định giá tài sản cũng là một biện pháp thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) Theo Điều 104 của BLTTDS, các bên có quyền cung cấp giá tài sản tranh chấp hoặc tự thỏa thuận về giá trị tài sản, đồng thời có quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá để thực hiện việc định giá và cung cấp thông tin cho Tòa án.

Khi có yêu cầu từ một bên, Tòa án sẽ yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản thực hiện việc thẩm định Việc này phải tuân theo quy định pháp luật về thẩm định giá, và kết quả sẽ được coi là chứng cứ nếu quy trình được thực hiện đúng luật Quy định này nhấn mạnh sự tự thỏa thuận của các bên, phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của các đương sự Tòa án chỉ can thiệp vào việc định giá tài sản trong những trường hợp cụ thể theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

1 Nghị định số 177/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá.

- Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;

Các bên liên quan không đạt được thỏa thuận về việc chọn tổ chức thẩm định giá tài sản, không đưa ra được mức giá tài sản khác nhau, hoặc không thể thống nhất được giá trị tài sản.

Các bên có thể thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài sản để xác định mức giá thấp hơn giá thị trường tại thời điểm định giá Hành động này nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc với bên thứ ba, hoặc có thể cho thấy tổ chức thẩm định giá đã vi phạm pháp luật trong quá trình thẩm định.

Khái quát các quy định pháp luật về định giá tài sản trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự

Trong giai đoạn sơ khai của pháp luật về định giá, các văn bản tố tụng dân sự còn hạn chế Thông tư số 06/TATC ngày 25/02/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn việc cử Hội đồng định giá tài sản Theo đó, Tòa án cần thành lập Hội đồng định giá với sự tham gia của đại diện chính quyền địa phương, cơ quan thương mại, xí nghiệp, hợp tác xã liên quan, và có thể mời thêm đại diện đoàn thể nhân dân nếu cần thiết Trong quá trình làm việc, Hội đồng định giá sẽ triệu tập các đương sự có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để nghe ý kiến về giá trị tài sản, sau đó thảo luận và đưa ra quyết định.

Pháp luật về định giá tài sản hiện nay chưa quy định rõ ràng về chủ thể là Chủ tịch Hội đồng định giá, cũng như trình tự, thủ tục định giá và quyền nghĩa vụ của các đương sự Điều này dẫn đến việc chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong công tác định giá tài sản.

2.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

Trong giai đoạn này, hoạt động định giá tài sản chủ yếu được quy định bởi ba pháp lệnh quan trọng: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996).

Các Pháp lệnh hiện hành chỉ quy định chung về việc Tòa án có thể yêu cầu định giá tài sản trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Tòa án và những người tiến hành tố tụng chỉ có thể thực hiện hành vi tố tụng dựa trên quy định pháp luật, do đó, nhiều vướng mắc trong giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến định giá tài sản đã phát sinh Mặc dù Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn để giải quyết những khó khăn này, nhưng các hướng dẫn này chưa được pháp điển hóa thành văn bản quy phạm pháp luật, nên chưa có giá trị pháp lý cao.

Theo kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại hội nghị tổng kết năm 1995, khi cần định giá tài sản tranh chấp, Tòa án sẽ triệu tập Hội đồng định giá, trong đó đại diện của Tòa án và Viện kiểm sát tham gia với vai trò giám sát, không có quyền biểu quyết Quyền quyết định giá trị tài sản hoàn toàn thuộc về các thành viên Hội đồng định giá, bao gồm đại diện cơ quan tài chính và các bên đương sự, những người có quyền phát biểu ý kiến Các đương sự phải chịu chi phí định giá tương ứng với phần tài sản phân chia, và nếu yêu cầu định giá bổ sung hoặc định giá lại, họ phải tạm ứng chi phí trước Tòa án sẽ quyết định ai phải thanh toán chi phí định giá dựa trên kết quả xét xử.

Tòa án yêu cầu định giá lại, thì Tòa án ứng trước khoản chi này, sau đó yêu cầu bên thua kiện phải chịu phần chi phí” 2

Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/9/1999 của Tòa án nhân dân tối cao cung cấp hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật liên quan đến các lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng Đặc biệt, công văn này tập trung vào việc định giá tài sản trong tố tụng dân sự, nhằm đảm bảo sự nhất quán và chính xác trong quá trình xét xử.

Về việc thu chi tiền tạm ứng chi phí định giá, cần phân biệt hai trường hợp: Thứ nhất, nếu các đương sự tự thỏa thuận yêu cầu cá nhân hoặc cơ quan thực hiện định giá, họ sẽ trực tiếp nộp tiền tạm ứng cho các bên thực hiện định giá Thứ hai, nếu việc định giá do Tòa án quyết định, Tòa án sẽ thu tiền tạm ứng chi phí định giá dựa trên dự báo của cơ quan định giá và chi trả cho cơ quan đó Sau khi việc định giá hoàn thành, Tòa án phải thanh toán với đương sự và trong bản án, quyết định, Tòa án sẽ xác định người phải chịu chi phí định giá cùng số tiền cụ thể.

Theo Điều 172 của Bộ luật dân sự, quyền sử dụng đất được coi là tài sản, và việc định giá quyền sử dụng đất phải tuân theo nguyên tắc chung như các tài sản khác Tuy nhiên, do quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt, việc định giá không thể dựa vào giá thị trường mà phải tuân thủ các quy định của nhà nước Cụ thể, cần thực hiện theo Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994 quy định khung giá các loại đất và Nghị định số 17/1998/NĐ-CP ngày 21/3/1998 sửa đổi bổ sung quy định liên quan.

Vấn đề đại diện của Tòa án không phải là thành viên của Hội đồng định giá đặt ra câu hỏi về cách giải quyết khi Hội đồng chỉ có hai thành viên (một từ cơ quan tài chính và một từ cơ quan khác) và ý kiến trái ngược nhau trong biểu quyết về giá Trong trường hợp này, Tòa án nhân dân tối cao cần xác định căn cứ nào để đưa ra quyết định hợp lý.

Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao năm 1996, quyết định cuối cùng về giá thuộc về Hội đồng định giá Trong trường hợp Hội đồng chỉ có hai thành viên và ý kiến trái ngược nhau, việc định giá sẽ được coi là chưa hoàn thành và cần tiến hành định giá lại Để tránh tình huống này, khi thành lập Hội đồng định giá, Tòa án cần mời thêm đại diện từ hai cơ quan chức năng khác ngoài đại diện của cơ quan tài chính, tùy thuộc vào loại tài sản cần định giá.

Công văn số 92/2000/KHXX ngày 21 tháng 7 năm 2000 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc xác định giá quyền sử dụng đất trong các vụ án hình sự, dân sự và kinh tế Theo đó, Tòa án sẽ chấp nhận giá mà các bên đương sự thỏa thuận, miễn là không trái với nguyên tắc tại Điều 7 của Bộ luật dân sự Nếu các bên không đạt được thỏa thuận, giá quyền sử dụng đất sẽ được xác định dựa trên giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương nơi có đất tranh chấp vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

Công văn số 109/2001/KHXX ngày 04 tháng 9 năm 2001 của Tòa án nhân dân tối cao đã gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, cung cấp hướng dẫn về việc xác định giá quyền sử dụng đất và định giá nhà Theo đó, việc xác định giá quyền sử dụng đất cần tuân thủ theo hướng dẫn đã nêu trong Công văn số 92/2000/KHXX ngày 21 tháng 7 năm 2000.

Đối với việc định giá nhà, quy trình thực hiện phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể Nếu nhà được xây dựng hợp pháp, Tòa án thường chấp nhận giá nhà theo thỏa thuận của các đương sự Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc trưng cầu Hội đồng định giá để xác định giá trị thực tế của nhà Đối với những trường hợp bên thuê hoặc mượn nhà tự ý xây dựng hoặc mở rộng diện tích mà không có sự đồng ý bằng văn bản của chủ sở hữu, nếu chủ sở hữu phải thanh toán cho giá trị diện tích xây dựng thêm, Tòa án sẽ xác định giá trị đầu tư còn lại dựa trên giá nguyên vật liệu và tiền công xây dựng theo giá thị trường tại thời điểm xét xử, trừ đi phần đã sử dụng.

Khi nhà bị giải tỏa theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ sở hữu sẽ được đền bù theo quy định Giá trị đền bù cho từng loại nhà sẽ được tính dựa trên mức giá mà nhà nước quy định cho việc bồi thường.

Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đến trước khi

3.1 Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2012:

BLTTDS năm 2004 quy định rõ quyền của đương sự yêu cầu Tòa án định giá tài sản tại Điều 58, đồng thời xác định quyền của Tòa án trong việc quyết định định giá tài sản để thu thập chứng cứ giải quyết vụ án tại Điều 85 Ngoài ra, Điều 92 cũng được dành riêng để quy định chi tiết về quy trình định giá tài sản.

Tòa án sẽ tiến hành định giá tài sản tranh chấp khi có yêu cầu từ một hoặc nhiều bên đương sự, hoặc khi các bên thỏa thuận mức giá thấp để trốn thuế hoặc giảm án phí.

Hội đồng định giá do Tòa án thành lập gồm chủ tịch và các thành viên là đại diện cơ quan tài chính cùng các cơ quan chuyên môn liên quan Để tiến hành định giá, cần có sự hiện diện đầy đủ của các thành viên Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản được định giá sẽ được mời tham dự Các đương sự sẽ được thông báo trước về thời gian và địa điểm định giá, có quyền tham gia và phát biểu ý kiến Quyền quyết định giá trị tài sản thuộc về Hội đồng định giá.

Cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm cử đại diện tham gia Hội đồng định giá và hỗ trợ họ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Các thành viên được cử tham gia Hội đồng định giá cần đảm bảo tham gia đầy đủ và tích cực vào công tác định giá.

Việc định giá cần được lập biên bản chi tiết, ghi rõ ý kiến của từng thành viên và ý kiến của đương sự nếu có mặt Quyết định của Hội đồng định giá phải nhận được sự tán thành của hơn một nửa tổng số thành viên Tất cả các thành viên hội đồng, đương sự và người chứng kiến đều phải ký tên vào biên bản.

Theo Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, mục 7 phần IV hướng dẫn một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự liên quan đến "Chứng minh và chứng cứ", cụ thể là hướng dẫn thi hành Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án sẽ ra quyết định định giá tài sản tranh chấp trong hai trường hợp: Thứ nhất, khi một hoặc các bên đương sự yêu cầu vì không thể thỏa thuận về giá Thứ hai, khi các bên đã thỏa thuận giá nhưng có chứng cứ rõ ràng cho thấy mức giá đó thấp hơn giá thị trường địa phương hoặc thấp hơn khung giá do cơ quan nhà nước quy định, nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm án phí.

Khi Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, việc định giá tài sản chỉ được tiến hành khi có yêu cầu từ một hoặc nhiều bên đương sự Quy trình định giá tài sản sẽ tuân theo thủ tục chung.

Tòa án cần xác định loại tài sản cần định giá, mối liên hệ với cơ quan chuyên môn, số lượng thành viên trong Hội đồng định giá và đại diện cơ quan nào sẽ làm chủ tịch Hội đồng Dựa trên những yếu tố này, Tòa án sẽ gửi công văn yêu cầu cụ thể đến Chủ tịch và ủy viên Hội đồng định giá, đồng thời quy định thời hạn mà cơ quan chuyên môn phải phản hồi về việc cử người tham gia Hội đồng định giá.

Sau khi nhận công văn trả lời từ các cơ quan chuyên môn về việc cử Chủ tịch và ủy viên Hội đồng định giá, thẩm phán cần kiểm tra xem các ứng viên có đáp ứng yêu cầu của Tòa án hay không Đồng thời, thẩm phán cũng phải xác định xem có ai trong số họ là người thân thích với đương sự trong vụ án Nếu phát hiện ứng viên không đủ điều kiện hoặc có mối quan hệ thân thích với đương sự, thẩm phán sẽ đề nghị cơ quan chuyên môn cử người khác thay thế.

Theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Thẩm phán có trách nhiệm ra quyết định định giá, trong đó cần ghi rõ ngày, tháng, năm và tên Tòa án Quyết định phải chỉ rõ tài sản cần định giá, thông tin về Chủ tịch và các thành viên Hội đồng định giá, nhiệm vụ của Hội đồng, cùng thời gian và địa điểm tiến hành định giá Để đảm bảo việc định giá diễn ra đúng lịch, Tòa án cần liên hệ trước với các thành viên Hội đồng để họ sắp xếp tham gia Nếu không thể tiến hành đúng thời gian đã ghi, Tòa án phải thông báo thời gian mới cho các thành viên và những người liên quan.

7.5 Tòa án có thể cử một Thư ký Tòa án để giúp việc cho Hội đồng định giá ghi biên bản về việc tiến hành định giá.

Trong trường hợp có người cản trở quá trình định giá, việc xử lý sẽ được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.5, mục 5, Phần IV của Nghị quyết này.

BLTTDS năm 2004 đánh dấu sự tiến bộ trong lập pháp, là kết quả của việc pháp điển hóa các quy định về tố tụng trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, và lao động Các quy định này kế thừa từ hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao nhưng đã được hoàn thiện hơn để phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế, xã hội Tuy nhiên, thực tế phức tạp trong công tác định giá tài sản trong tố tụng dân sự vẫn đặt ra thách thức cho những quy định này.

BLTTDS năm 2004 vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và hệ thống Tòa án vẫn gặp khó khăn trong công tác tiến hành định giá.

3.2 Giai đoạn từ năm 2012 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Sau sáu năm thực hiện, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 đã được sửa đổi và bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2011 Trong đó, Điều 92 liên quan đến việc định giá tài sản đã được chỉnh sửa.

1 Các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản.

Tòa án có quyền ra quyết định định giá tài sản tranh chấp trong những trường hợp sau: khi có yêu cầu từ một hoặc nhiều bên đương sự, hoặc khi các bên đạt được thỏa thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá về mức giá thấp nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước.

Định giá tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Vào ngày 25 tháng 11 năm 2015, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật số 92/2015, ban hành Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự và cải cách pháp luật về định giá tài sản.

4.1 Các trường hợp thành lập Hội đồng định giá tài sản

Tại Điều 104 của BLTTDS 2015 quy định:

1 Đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp; thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp.

Các bên liên quan có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc định giá và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.

Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản

Tòa án có quyền ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá trong các trường hợp như: khi có yêu cầu từ một bên đương sự, khi các bên không thỏa thuận được tổ chức thẩm định giá hoặc giá tài sản khác nhau, và khi các bên thỏa thuận giá thấp hơn giá thị trường nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba Luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã cải thiện quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong việc chọn tổ chức thẩm định, đồng thời giải quyết tình trạng nhiều vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất không có yêu cầu định giá hoặc thỏa thuận giá thấp để tránh nghĩa vụ Điều này khắc phục hạn chế của BLTTDS năm 2004 khi không quy định rõ về giá thấp và việc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba, dẫn đến việc Tòa án chấp nhận giá thỏa thuận theo khung giá của Ủy ban nhân dân tỉnh, thường thấp hơn giá thị trường.

4.2 Thành phần tham gia định giá tài sản

Tại điểm a khoản 4 Điều 104 của BLTTDS năm 2015 quy định:

Hội đồng định giá do Tòa án thành lập bao gồm Chủ tịch là đại diện cơ quan tài chính và các thành viên là đại diện từ các cơ quan chuyên môn liên quan Những người đã tham gia tố tụng trong vụ án đó không được tham gia vào Hội đồng định giá.

52 của Bộ luật này không được tham gia Hội đồng định giá.

Hội đồng định giá chỉ thực hiện việc định giá khi tất cả các thành viên có mặt đầy đủ Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản được định giá sẽ được mời tham gia chứng kiến Các bên liên quan sẽ được thông báo trước về thời gian và địa điểm định giá, đồng thời có quyền tham dự và phát biểu ý kiến Quyền quyết định về giá tài sản thuộc về Hội đồng định giá.

Theo quy định hiện hành, Thẩm phán không phải là thành viên của Hội đồng định giá, mà chỉ có quyền thành lập Hội đồng này Hội đồng định giá bao gồm đại diện của cơ quan tài chính, người sẽ giữ vai trò Chủ tịch, cùng với các thành viên là đại diện của các cơ quan chuyên môn liên quan Những người đã tham gia tố tụng trong vụ án, như đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự, hoặc những người có thể không đảm bảo tính khách quan, như người bảo vệ quyền lợi, người làm chứng, người giám định và người phiên dịch, sẽ không được tham gia Hội đồng định giá để đảm bảo tính công bằng và khách quan trong quá trình đánh giá.

Luật không quy định số lượng cụ thể thành viên của Hội đồng định giá, nhưng để đảm bảo nguyên tắc quá bán, tức là quyết định phải được hơn nửa tổng số thành viên đồng ý, Hội đồng định giá tài sản cần có ít nhất 03 thành viên.

Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản phải là đại diện của cơ quan tài chính, trong khi các thành viên khác không bị quy định cụ thể mà chỉ cần là cơ quan chuyên môn liên quan Thẩm phán sẽ lựa chọn cơ quan chuyên môn phù hợp với từng loại tài sản cần định giá Ví dụ, nếu tài sản là cây cảnh, Hội sinh vật cảnh sẽ được mời tham gia; còn nếu là nhà ở và quyền sử dụng đất, đại diện của cơ quan Tài nguyên và môi trường sẽ có mặt Ngoài ra, đại diện Ủy ban nhân dân xã nơi có tài sản sẽ chứng kiến quá trình định giá, và các bên liên quan sẽ được thông báo về thời gian và địa điểm định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến.

Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNHTC-BTP-BTC quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá tài sản và các thành viên trong Hội đồng này.

“Điều 11 Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá tài sản

Hội đồng định giá tài sản có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu và thông tin liên quan đến tài sản cần định giá, bao gồm văn bản về tình trạng và tỷ lệ chất lượng còn lại của tài sản Ngoài ra, Hội đồng cũng có quyền đề nghị Tòa án thuê các dịch vụ cần thiết để thực hiện việc định giá tài sản và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Hội đồng định giá tài sản có trách nhiệm tuân thủ các nguyên tắc và quy trình định giá theo quy định pháp luật, thực hiện định giá đúng thời gian ghi trong Quyết định, và thông báo cho Tòa án nếu không thể tiến hành đúng hạn Hội đồng cũng phải đưa ra kết luận về giá trị tài sản và chịu trách nhiệm về kết luận đó, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Thành viên Hội đồng định giá tài sản có quyền nhận Quyết định định giá, đưa ra nhận định về tính chất và đặc điểm của tài sản, biểu quyết xác định giá trị tài sản, và được thông báo kịp thời bằng văn bản về các thông tin liên quan đến phiên họp định giá tài sản Ngoài ra, họ còn có các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Các thành viên của Hội đồng định giá tài sản có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ theo Quyết định định giá và sự phân công của Chủ tịch Hội đồng Họ cần tham dự đầy đủ và đúng giờ các phiên họp định giá tài sản theo lịch đã được thông báo Ngoài ra, các thành viên cũng phải chịu trách nhiệm về nhận định, đánh giá và biểu quyết của mình trong các phiên họp Cuối cùng, họ còn phải tuân thủ các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

4.3 Trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá tài sản

Tại điểm b, c khoản 4 Điều 104 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:

Cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và hỗ trợ họ trong nhiệm vụ này Thành viên Hội đồng định giá phải tham gia đầy đủ, nếu không, Tòa án sẽ yêu cầu cơ quan quản lý chỉ đạo thực hiện Nếu thành viên không tham gia mà không có lý do chính đáng, Tòa án sẽ yêu cầu lãnh đạo cơ quan xem xét trách nhiệm và cử người thay thế Việc định giá phải được lập biên bản ghi rõ ý kiến từng thành viên và quyết định của Hội đồng cần quá nửa số thành viên đồng ý Tất cả thành viên, đương sự và người chứng kiến phải ký tên hoặc điểm chỉ vào biên bản.

Theo Thông tư 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014, Điều 15 và 16 quy định rõ về trình tự, thủ tục trong phiên họp của Hội đồng định giá tài sản, cũng như cách xử lý khi có hành vi cản trở việc định giá tài sản.

“ Điều 15: Trình tự, thủ tục phiên họp của Hội đồng định giá tài sản

1 Hội đồng định giá chỉ tiến hành phiên họp để định giá tài sản khi có mặt đầy đủ các thành viên Hội đồng.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ 1 Những bất cập, tồn tại của hoạt động định giá tài sản trong các vụ việc dân sự

Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, vướng mắc

Những khó khăn tồn tại, vướng mắc nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân chính sau đây:

Quy định pháp luật về hoạt động định giá tài sản hiện nay còn thiếu sự cụ thể và rõ ràng, dẫn đến sự không thống nhất trong cách hiểu và áp dụng.

Một số Thẩm phán chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc thụ lý và giải quyết án, dẫn đến việc trình độ chuyên môn và nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu công việc, đặc biệt là trong bối cảnh phức tạp của án dân sự hiện nay Năng lực và trình độ của Thẩm phán không đồng đều, thiếu sự học hỏi và rèn luyện kỹ năng chuyên môn, cũng như cập nhật các văn bản pháp luật, khiến cho họ gặp khó khăn khi xử lý các vụ án phức tạp Điều này dẫn đến nhiều sai sót trong thủ tục tố tụng và áp dụng pháp luật, do việc nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ lưỡng và đánh giá chứng cứ còn chủ quan, không đầy đủ và toàn diện.

Nhiều đương sự không tuân thủ đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật, dẫn đến khó khăn và cản trở trong quá trình định giá tài sản.

- Thứ tư: Sự phối hợp của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương còn thực hiện chưa tốt, còn nhiều hạn chế

Thành viên của Hội đồng định giá thường không phải là chuyên gia định giá tài sản, dẫn đến việc họ không dành đủ thời gian và sự chú ý cho hoạt động này Điều này khiến họ thiếu thông tin và tài liệu cần thiết, cũng như không có đủ thời gian để khảo sát giá thị trường, trong khi giá cả luôn biến động Ngoài ra, nhiều loại tài sản tại các địa phương ít có giao dịch, gây khó khăn trong việc xác định giá theo thị trường Tâm lý của các thành viên cũng cho thấy việc áp dụng giá theo khung giá Nhà nước là phương án dễ thực hiện và an toàn hơn.

Trong nhiều trường hợp, các đương sự không đồng tình với mức giá do Hội đồng định giá tài sản đưa ra Ngay cả khi Tòa án cũng nhận thấy mức giá này không hợp lý, yêu cầu định giá lại thường bị từ chối vì những lý do đã được nêu.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Hoạt động định giá tài sản trong giải quyết vụ án dân sự đóng vai trò quan trọng, nhưng hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự và kéo dài thời gian tố tụng Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của cá nhân mà còn tác động đến uy tín của hệ thống Tòa án nhân dân Do đó, nghiên cứu về vấn đề này là cần thiết để đưa ra giải pháp khắc phục, bảo vệ quyền lợi của đương sự và quyền lợi hợp pháp của công dân Qua đó, góp phần nâng cao vị thế của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, cũng như lợi ích của Nhà nước và tổ chức, công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.

Giải pháp, kiến nghị

Để khắc phục những tồn tại, bất cập trong hoạt động định giá tài sản như đã nêu trên, tôi kiến nghị một số giải pháp sau:

Để đảm bảo hoạt động của Hội đồng định giá không bị cản trở, cần bổ sung các quy định đồng bộ, trong đó lực lượng hỗ trợ tư pháp thuộc cơ quan Công an và Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện phải phối hợp chặt chẽ với Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, đặc biệt là trong việc bảo vệ Hội đồng định giá trong công tác định giá.

Trong trường hợp có hành vi cản trở Hội đồng định giá thực hiện định giá tài sản, Chủ tịch Hội đồng sẽ yêu cầu sự can thiệp kịp thời từ đại diện Ủy ban nhân dân xã, phường, cơ quan công an và các cơ quan chức năng khác Nếu hành vi cản trở vẫn tiếp diễn, Hội đồng định giá có quyền đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc người vi phạm thực hiện hoặc ngừng hành vi tương ứng.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Ủy ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền xác định mức tiền xử phạt đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự Việc áp dụng mức xử phạt nghiêm khắc cùng với thủ tục đơn giản và nhanh chóng sẽ là biện pháp hiệu quả nhằm hạn chế các hành vi cản trở này.

Theo thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá, nếu các bên vẫn yêu cầu Toà án ra quyết định định giá sau khi đã có kết quả thẩm định giá của tổ chức, thì kết quả này sẽ được Toà án chấp nhận và làm căn cứ giải quyết vụ án, trừ khi có thỏa thuận khác Tương tự, nếu đã có kết quả định giá từ Hội đồng định giá tài sản nhưng các bên vẫn yêu cầu Toà án thuê tổ chức thẩm định giá, luật nên quy định rằng các bên phải chấp nhận kết quả của tổ chức thẩm định giá, trừ khi có thỏa thuận khác Điều này thể hiện ý chí tự nguyện của các bên và tránh tình trạng vụ án không có điểm dừng nếu luật không quy định rõ ràng.

Để cải thiện tình trạng Hội đồng định giá chỉ dựa vào khung giá địa phương mà không xem xét giá thị trường, cần nhấn mạnh rằng việc định giá theo giá thị trường là yêu cầu bắt buộc theo Bộ luật tố tụng dân sự Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên yêu cầu Hội đồng định giá có thể tham khảo mức giá tại địa phương thông qua đại diện Ủy ban nhân dân xã, phường có mặt trong phiên định giá Việc chỉ định giá theo khung giá cần dựa trên các chứng cứ chứng minh rằng khung giá đó phù hợp với giá thị trường.

- Về căn cứ định giá lại: Cần bổ sung thêm vào khoản 5 Điều 104 của BLTTDS các căn cứ định giá lại tài sản như sau:

Có căn cứ thành viên của Hội đồng định giá không đủ tiên chuẩn, năng lực làm thành viên Hội đồng định giá.

Cần lưu ý rằng thành viên Hội đồng định giá có thể không vô tư khách quan nếu họ là người thân thích của đương sự hoặc tham gia với vai trò người bảo vệ quyền lợi, người làm chứng hay người phiên dịch Hơn nữa, giá trị tài sản có thể bị biến động do khoảng thời gian dài giữa thời điểm định giá và thời điểm Tòa án đưa vụ án ra xét xử.

Mỗi Thẩm phán cần nắm vững quy định pháp luật về định giá tài sản trong vụ việc dân sự Đề nghị Tòa án cấp trên bố trí nhân sự phù hợp cho Tòa án cấp dưới Cần tăng cường công tác thông tin và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn hệ thống Tòa án.

- Chú trọng công tác hòa giải Khi tiến hành định giá tài sản phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục mà BLTTDS quy định.

Đối với các vụ án dân sự phức tạp, Tòa án nhân dân cấp dưới cần chủ động xin ý kiến từ Tòa án cấp trên và phối hợp với Viện kiểm sát qua các cuộc họp liên ngành Điều này nhằm thống nhất nhận thức trong việc áp dụng pháp luật, hạn chế việc giải quyết vụ án dựa trên cảm tính và nhận định chủ quan của Thẩm phán, tránh tình trạng bị hủy án hoặc sửa án Đồng thời, cần quán triệt đội ngũ Thẩm phán tuân thủ đúng hướng dẫn nghiệp vụ từ Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao.

Cần thiết phải tiến hành nghiên cứu và soạn thảo luật hoặc pháp lệnh về định giá tài sản áp dụng cho ba lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự và hành chính Luật hay pháp lệnh này cần được khảo sát kỹ lưỡng thực tiễn nhằm khắc phục những nhược điểm đã được phân tích trước đó.

Để nâng cao hiệu quả công tác định giá tài sản trong vụ việc dân sự, cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn và rút kinh nghiệm Qua đó, có thể kịp thời phát hiện và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đồng thời thống nhất phương pháp giải quyết.

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trang 1

Chương I: KHÁI NIỆM ĐỊNH GIÁ VÀ KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN QUA CÁC THỜI KỲ

1 Khái niệm định giá và định giá tài sản theo tố tụng dân sự 3

2 Khái quát các quy định pháp luật về định giá tài sản trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 4

3 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 8

4 Định giá tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 14

Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐỊNH GIÁ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ 1 Những bất cập, tồn tại của hoạt động định giá tài sản trong các vụ việc dân sự 24

2 Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, vướng mắc 31

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1 Kết luận chung 32

Ngày đăng: 28/12/2021, 13:02

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w