1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

NGHỆ THUẬT DÂN GIAN CA TRÙ Ở BẮC BỘ

30 28 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghệ Thuật Dân Gian Ca Trù Ở Bắc Bộ
Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 2,33 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • Trang

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • 1. Lý do chọn đề tài ...............................

  • 4.Phương pháp nghiên cứu

Nội dung

Hiện nay với sự phát triển của đời sống xã hội nhu cầu giải trí tinh thần của con người càng cao, với những sự bùng nổ của làn sóng văn hóa nước ngoài du nhập vào Việt Nam, làn sóng sính nhạc thương mại , nhạc ngoại, xu hướng quay lưng với âm nhạc dân tộc ngày càng báo động . Một số nghệ thuật dân gian đứng trước nguy cơ thất truyền. Dân tộc Việt Nam vốn có nhiều bộ môn nghệ thuật âm nhạc truyền thống độc đáo, đa dạng của mỗi vùng miền khác nhau tạo nên một sự đặc trưng mà chỉ có ở Việt Nam như: Các loại hình âm nhạc như nhã nhạc cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên, quan họ, ca trù, hát xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong đó ca trù là một di sản văn hóa đặc sắc của Việt Nam, được nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định ca trù là một bộ môn nghệ thuật lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng ca nhạc của người Việt Nam. Ngoài ra ca trù còn gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý lối sống của người Việt. Do vậy nghiên cứu ca trù cũng là góp phần vào việc bảo tồn và giữ gìn giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam. Ca trù là một bộ môn nghệ thuật đặc sắc của dân tộc, đứng trước nguy cơ biến mất, thất truyền thì tôi đã chọn ca trù để nghiên cứu, nhằm cho mọi người biết đến một nghệ thuật hát cổ truyền, độc đáo khi kết hợp thi ca và âm nhạc, ngoài ra ca trù còn gắn liền với đình làng, đền thờ thần, nhà thờ tổ nghề, dinh thự, ca quán thính phòng, gần như gắn liền với người Việt. Nhưng sau năm 1945, biến cố lịch sử khiến ca trù bị cấm vì hiểu lầm và đánh đồng, với các loại hình sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị, khiến cho ca trù gần như bị loại bỏ khỏi xã hội. Qua thời gian dài lịch sử, thì ca trù không được nuôi dưỡng và duy trì, không được xã hội đón nhận và tôn vinh, một số nghệ nhân chơi ca trù đã cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu lai lịch của mình. Qua nghiên cứu này giúp mọi người hiểu rõ về ca trù cũng như khôi phục giá trị cổ xưa của cố nhân đã và đang dần có nguy cơ biến mất.

Mục đích nghiên cứu

Ca trù là một bộ môn nghệ thuật độc đáo của dân tộc Việt Nam, kết hợp giữa thi ca và âm nhạc, gắn liền với các hoạt động văn hóa truyền thống như đình làng và đền thờ Tuy nhiên, sau năm 1945, ca trù bị cấm do những hiểu lầm và bị đánh đồng với các hoạt động không lành mạnh, dẫn đến sự suy tàn của nghệ thuật này Qua thời gian, ca trù không được duy trì và tôn vinh, khiến nhiều nghệ nhân phải giấu diếm lai lịch của mình Nghiên cứu về ca trù không chỉ giúp khôi phục giá trị văn hóa cổ xưa mà còn nâng cao nhận thức của cộng đồng về nghệ thuật đang có nguy cơ biến mất này.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích – tổng hợp được áp dụng chủ yếu trong nghiên cứu này, với nguồn tư liệu thu thập từ sách, bài báo, công trình nghiên cứu trước đây và thông tin từ Internet liên quan đến đề tài Dựa trên các tư liệu này, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích để rút ra dữ liệu cần thiết, sau đó tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức liên quan nhằm xác định các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.

Phương pháp hệ thống cấu trúc cho phép phân tích ca trù không chỉ từ góc độ tổng thể của một tác phẩm đơn lẻ mà còn trong bối cảnh toàn bộ thể loại Điều này giúp hiểu rõ hơn về mối liên hệ và đặc điểm của ca trù trong hệ thống văn hóa nghệ thuật.

Phương pháp hệ thống liên ngành, nghiên cứu ca trù trong đời sống người dân Bắc Bộ từ Nghệ thuật, Nhân học xã hội, Âm nhạc học,

5 Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu

Bài viết này nhằm mục đích giới thiệu đến giới trẻ và các thế hệ sau về một bộ môn nghệ thuật độc đáo, thể hiện trí tuệ và sự sáng tạo của ông cha ta trong lịch sử văn hóa Việt Nam.

Ca trù, một bộ môn nghệ thuật quý giá trong văn hóa Việt Nam, đã trải qua lịch sử phát triển lâu dài tại các làng quê Bắc Bộ Việc phục hồi nghệ thuật ca trù không chỉ giúp bảo tồn di sản văn hóa mà còn góp phần giới thiệu những giá trị nghệ thuật dân gian của Việt Nam đến với thế giới Nghiên cứu và phát triển ca trù là cần thiết để giữ gìn bản sắc văn hóa và nâng cao nhận thức về nghệ thuật truyền thống.

Việt Nam đặc sắc mang đậm bản sắc dân tộc.

CHƯƠNG I:Cơ sở lý luận thực tiễn

1.1 Khái quát nguồn gốc, sự phát triển và hình thành ca trù

Ca trù là một bộ môn nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Việt Nam, thể hiện qua lối hát cổ truyền Tên gọi "ca trù" có nguồn gốc từ chữ "trù," là thẻ tre ghi số tiền thưởng cho nghệ sĩ trong khi biểu diễn, thay cho tiền mặt Mặc dù không ai biết chính xác thời điểm ra đời của ca trù, nhưng nó đã xuất hiện sơ khai vào đầu thế kỷ 11 và trở nên thịnh hành từ thế kỷ 15 Đến nửa cuối thế kỷ 20, ca trù được quốc tế biết đến qua tiếng hát của nghệ nhân Quách Thị Hồ Loại hình nghệ thuật này được ưa chuộng trong giới hoàng thân, quý tộc và văn nhân, thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa thi ca và âm nhạc, bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thời nhà Lê.

Ca trù là một loại hình nghệ thuật biểu diễn phong phú, sử dụng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện và thể ngâm, trong đó Hát nói là phổ biến nhất Tùy theo từng địa phương và thời điểm, ca trù còn được gọi là hát ả đào, hát cô đầu hay hát nhà tơ Lịch sử ca trù có từ thế kỷ XV, với các bài thơ của Lê Đức Mao được ghi lại trong gia phả họ Lê Một số nghiên cứu cho rằng ca trù đã xuất hiện từ thời Lý và đạt được sự hoàn thiện về lối hát Ca trù không chỉ là âm nhạc mà còn gắn liền với các nghi thức tế thần tại đình làng, bao gồm cả các điệu múa và biểu diễn kỹ thuật nghề như đàn và trống.

Ca trù có nguồn gốc từ truyền thuyết ở Cổ Đạm, nơi ghi lại câu chuyện gặp gỡ các vị tiên đạo Lão Dân gian đã tìm cách giải thích và kết nối tư tưởng của Đạo Thần Tiên và Đạo Lão với văn nghệ dân gian, thể hiện sự giao thoa giữa tín ngưỡng và nghệ thuật trong đời sống văn hóa.

Tổ nghề ca trù bao gồm hai nhân vật, một nam và một nữ, với người đàn ông được gọi bằng nhiều tên khác nhau tùy thuộc vào từng làng, như Đinh Lễ ở Cổ Đạm, Đinh Dự ở Lỗ Khê, và Đinh Triết ở Xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây Nghiên cứu cho thấy các nơi có ả đào thường liên quan đến họ Đinh, tạo ra nhiều nghi vấn nhưng vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng.

Ca trù có nguồn gốc từ vùng Thanh-Nghệ, nơi được coi là quê hương của loại hình nghệ thuật này Mặc dù tài liệu ghi chép về ca trù chỉ được biên soạn vào thế kỷ XV, nhưng không thể coi đây là căn cứ vững chắc để xác định niên đại lịch sử của ca trù Truyền thuyết về ca trù phản ánh xu hướng thiêng hóa các tổ ngành nghề trong văn hóa Việt Nam.

Sau năm 1945, ca trù, một loại hình nghệ thuật tao nhã và sang trọng, đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các hoạt động không lành mạnh, dẫn đến sự chối bỏ trong xã hội và sự suy giảm trong đời sống văn hóa Thiếu sự nuôi dưỡng và phát triển, ca trù đã rơi vào tình trạng lụi tàn, khiến nhiều nghệ nhân phải giấu kín nghề nghiệp của mình Gần đây, mối lo ngại về nguy cơ thất truyền của ca trù đã được đề cập nhiều hơn, khi giới trẻ ngày nay ưa chuộng các loại hình âm nhạc hiện đại, khiến số lượng người nghe và nghệ sĩ ca trù ngày càng giảm Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn ca trù như một di sản văn hóa quý giá của dân tộc, nhằm phục hồi và chấn hưng nghệ thuật này.

1.3 Các thể cách của ca trù

Tư liệu Hán Nôm đã ghi nhận 99 thể cách Ca trù, được chia thành ba nhóm chính Nhóm hát thuần túy bao gồm 66 làn điệu, trong đó có năm nhóm nhỏ: hát, đọc, nói, ngâm và thổng Nhóm kết hợp hát - múa - diễn có 19 thể cách, trong khi nhóm nghi lễ và trình diễn nghề trong thi cử gồm 14 thể cách.

61) Thể cách ca trù dùng trong cả hát chơi, hát cửa đình, hát thi như sau:

Sẩm cô đầu, Ả phiền, Hà liễu câu một, Trở tay ba, Chúc tay ba, Chúc Tam thanh, Hà nam câu một, Dóng chinh phu, Dựng huỳnh, Ngâm sang hát, Xướng tầnggiai, Hát ru, Nhịp ba cung, Đại thạchbắc, và Bỏ bộ (vũ) là những thể loại nghệ thuật truyền thống phong phú của Việt Nam, mỗi loại đều mang đậm bản sắc văn hóa và âm nhạc dân tộc Những thể loại này không chỉ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật mà còn phản ánh đời sống tinh thần của người dân qua các giai điệu và lời ca.

Trong nghệ thuật biểu diễn dân gian Việt Nam, có nhiều hình thức phong phú như Chúc hỗ, Múa tứ linh, và Ca đàn Thơ cách và Hát giai câu một thể hiện sự sáng tạo trong thơ ca, trong khi Thơ phòng và Ngâm phú mang đến những trải nghiệm cảm xúc sâu sắc Màn đầu hát gái và Mã thượng kiều là những phần không thể thiếu trong các buổi biểu diễn Hát sử và Dã sử, cùng với Màn đầu hát truyện, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân gian, tạo nên sự đa dạng và hấp dẫn cho người xem.

45.Phản huỳnh 46.Non mai 47.Hồng hạnh

Các bài hát cửa đình:

10.Múa Bỏ bộ 11.Múa Bài bông 12.Tấu nhạc

Ngoài ra trong ca trù, ca quán và nhà riêng có các điệu hát:

9 Đọc thơ 10.Đọc phú 11.Hát ru 12.Hãm 13.Kể chuyện 14.Sầm nhà trò 15.Ba mươi sáu giọn

Tác giả cho biết : “ Đến nay, các thư tịch nói về ca trù chỉ còn ghi lại được khoảng

Các nghệ nhân cao tuổi ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Ninh Bình vẫn nhớ được hơn 80 điệu hát truyền thống Tuy nhiên, họ chỉ nhớ một phần, có những điệu đã quên và cũng có nhiều dị bản khác nhau.

“Tam sao thất bản” đã có nhiều biến tấu, khiến các điệu cổ như Dóng Chinh phu, Mã thượng kiều, Trở tay ba, Xướng tầng, Nói huỳnh, Dựng huỳnh dần bị lãng quên Những điệu hát thông dụng hiện nay đang được nhắc đến nhiều hơn.

Các điệu hát thông dụng

11.Tỳ bà hành 12.Gửi thư 13.Chừ khi 14.Hát ru 15.Ba mươi sáu giọng 16.Sầm huê tình 17.Kể truyện 18.Hãm 19.Hát múa Bỏ bộ 20.Mùa Bài bông

Các thể cách ca trù trong ghi nhận của tài liệu Hán Nôm.

Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu thu được

Quá trình hình thành và phát triển của ca trù ở Bắc Bộ 2.1 Quá trình hình thành

Quá trình phát triển

Thế kỷ XVI – Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc Bộ

Sự phát triển và phổ biến của ca trù vào thế kỷ XVI được thể hiện qua các bức chạm khắc dân gian tại đình làng, như đình Lỗ Hạnh và đình Tây Đằng Tại đình Tây Đằng, có tượng tròn hình người đứng cầm đàn đáy, trong khi đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên con hươu cầm đàn đáy Những tác phẩm điêu khắc này chứng minh rằng ca trù đã trở thành một phần quan trọng trong các hoạt động văn hóa của làng quê trong thời kỳ này.

Hình: Bức chạm đình lỗ Hạnh ( nguồn:http://baobacgiang.com.vn/bg/hiep- hoa/tiem-nang-co-hoi-dau-tu/201624/dinh-lo-hanh-de-nhat-kinh-bac.htm)

Tại chùa Cói (Thần Tiên tự) ở xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, từng có bức chạm khắc hình ảnh người phụ nữ gảy đàn đáy Tuy nhiên, hiện vật này đã bị thiêu rụi cùng với ngôi chùa, để lại chỉ bức ảnh chụp lại tác phẩm Đây là tư liệu mỹ thuật duy nhất về đàn đáy được phát hiện tại một ngôi chùa, mang giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt.

Qua những hình chạm người cầm đàn đáy ở các đình, có thể thấy rằng ở thể kỷ XVI đàn đáy đã trở nên phổ biến, ở đồng bằng Bắc Bộ.

Hình: Chùa Cói ở Vĩnh Phúc ( nguồn: https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/dukhach/Lists/DiTichDanhThang/Vie w_Detail.aspx?ItemID2)

Thế kỷ XVII và XVIII – tổ chức giáo phường ca trù đã hoàn bị

Vào thế kỷ XVIII, cây đàn đáy tiếp tục được ghi nhận trong dòng chảy văn hóa điêu khắc đình làng từ thế kỷ trước, cho thấy vai trò quan trọng của nó trong đời sống và phong tục dân gian Hoạt động diễn xướng ca trù đã trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt tại các đình làng.

Các ngôi đình có niên đại từ thế kỷ XVII như đình Đại Phùng, đình Hoàng Xá và đình Xốm vẫn còn lưu giữ các bức chạm khắc thể hiện hình ảnh những người chơi đàn đáy Đặc biệt, đình Đại Phùng nổi bật với chi tiết hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, trong khi đình Xốm mô tả một dàn nhạc công đang biểu diễn hòa nhạc.

Các bức chạm hiện nay thể hiện sự tinh tế trong điêu khắc, khác với vẻ mộc mạc thô phác trước đó, đặc biệt là trong việc miêu tả trang phục và vũ điệu mềm mại của nghệ sĩ dân gian Nghệ sĩ thường mang trang phục nghi lễ hát thờ, với mũ đội đầu hoặc búi tóc gọn gàng, thể hiện sự chuyên nghiệp của vũ công Những bức chạm này là tư liệu quý giá, góp phần phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền trong dân gian.

Các bức chạm này miêu tả một buổi hòa nhạc vui vẻ với sự tham gia của nhiều nhạc cụ như đàn đáy, phách ngắn, phách dài, cây sáo, trống cơm và trống mảnh Điều này cho thấy sinh hoạt ca trù của người dân Bắc Bộ xưa mang tính cộng đồng, không chỉ giới hạn ở ba nhạc cụ như trống chầu, đàn đáy và phách như trong ca trù ca quán sau này, mà còn phong phú hơn với sự góp mặt của nhiều nhạc cụ khác, tạo nên không khí rộn ràng.

Hình: Bức chạm đình Đại Phùng ( nguồn: http://m.diaoconline.vn/kham-pha/the- gioi-kien-truc-c4/dinh-dai-phung-an-tuong-nhung-mang-cham-khac-dan-gian- i22278)

Theo nghiên cứu về phân bố giáo phường ca trù, hầu hết các văn bia liên quan tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ Tỉnh Hà Tây ghi nhận số lượng bia nhiều nhất với 33 bia, tiếp theo là các huyện Quốc Oai (10 bia), Phúc Thọ (8 bia), Thạch Thất và Đan Phượng (mỗi huyện 6 bia) Hà Nội có 11 bia, chủ yếu nằm ở ngoại thành và thuộc thế kỷ XVIII Ngoài ra, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định mỗi tỉnh có 1 bia.

Thế kỷ XIX ghi dấu sự hoàn thiện của thể cách hát nói ( cả về mặt âm nhạc, văn chương và việc thường ngoạn )

Thể hát nói đã ra đời và phát triển như một thể loại văn học độc đáo, đánh dấu bước tiến cao trong ca trù Là một hình thức thơ ca dân tộc, hát nói phản ánh nhu cầu của nghệ thuật ca trù và góp phần vào sự phong phú của văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học chữ Nôm Cùng với lục bát và song thất lục bát, hát nói thể hiện sự sáng tạo trong thể loại văn học chữ Nôm Hai tác giả nổi bật trong việc hoàn thiện thể hát nói là Nguyễn Bá Xuyến và Nguyễn Công Trứ, trong đó Nguyễn Bá Xuyến gọi các tác phẩm của mình là “bài ca Nôm”.

Theo sách ca trù thể cách, mỗi bài hát chỉ có 11 câu và có ba tên gọi khác nhau: Hát nói dành cho đào hát, Hát Hà Nam dành cho kép hát, và Hát nối chỉ các bài dôi khổ.

Hát nói là một thể thơ đặc trưng phục vụ cho âm nhạc, thể hiện tâm trạng phức tạp của trí thức bình dân trong bối cảnh lịch sử đầy biến động.

Hát nói đã đóng góp quan trọng vào việc làm nổi bật hình ảnh của nhà nho tài tử trong văn chương Việt Nam, với những đại biểu tiêu biểu như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh và Nguyễn Khuyến.

Ca trù tại các ca quán sử dụng nhạc khí đơn giản, bao gồm phách, đàn đáy và trống chầu nhỏ Thơ kết hợp với nhạc, trong đó nhạc phục vụ cho thơ Người nghe chủ yếu đến để thưởng thức thơ, nơi cảm xúc cá nhân được đề cao hơn cảm xúc cộng đồng.

Thế kỷ XX – các ca quán và hoạt động của văn nghệ sĩ

Sự tàn lụi của sinh hoạt ca trù ở nông thôn Việt Nam đang diễn ra, nhưng những nỗ lực phục hồi ban đầu đã được thực hiện Các giáo phường vẫn duy trì truyền thống ca trù qua nhiều thế hệ, phục vụ hát thờ tại các đình làng trong dịp lễ hội và biểu diễn tại các gia đình khi có nhu cầu.

Ca quán hiện nay có hai loại cô đầu: cô đầu hát và cô đầu rượu Cô đầu hát xuất hiện từ khi có ca trù, trong khi cô đầu rượu chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 Các cô đầu rượu thường không biết hát và không có xuất thân từ các giáo phường ca trù nông thôn; họ đến ca quán chủ yếu để kiếm tiền mà không phải làm lụng vất vả Nghề của các cô đầu rượu là giao tiếp với quan viên, đáp ứng nhu cầu thư giãn của họ, nhưng chính họ cũng đã khiến nhiều gia đình lâm vào cảnh khuynh gia bại sản và ly tán.

Nghề kinh doanh ca quán đang phát triển mạnh mẽ, với sự xuất hiện của các nhà hát cô đầu tại nhiều địa phương Tại miền Trung, các tỉnh như Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa đều có nhà hát, trong khi miền Bắc có nhiều thành phố lớn sở hữu những địa điểm này Đặc biệt, tại Nam Định, nhà hát cô đầu đầu tiên được mở ở phố Hàng Thao, sau đó chuyển xuống Ngã Sáu.

Đặc điểm của ca trù ở Bắc Bộ 3.1 Nhạc cụ sử dụng trong ca trù

Giá trị của ca trù 4.1 Đối với kho tàng nghệ thuật diễn xướng

Bảo tồn và phát huy ca trù 5.1 Bảo tồn

Ngày đăng: 24/12/2021, 08:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Thị An , 1999. Ca trù qua một số truyền thuyết. Tạp chí Văn hóa Dân gian Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ca trù qua một số truyền thuyết
5. Nguyễn Xuân Diện, 2001. Nét văn hóa Thăng Long trong sinh hoạt ca trù.Tạp chí VHNT Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nét văn hóa Thăng Long trong sinh hoạt ca trù
6. Phạm Văn Duyệt, 1923. Hát ả đào. Tác giả xuất bản,Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hát ả đào
7. Trịnh Khải, 1993. Ca trù – một nền âm nhạc bác học. Tạp chí Âm nhạc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ca trù – một nền âm nhạc bác học
8. Vũ Ngọc Khánh, 1997. Thơ nhạc từ dân gian đến bác học để trở về dân gian. Tạp chí Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ nhạc từ dân gian đến bác học để trở về dângian
9. Nguyễn Đức Mậu, 2003. Ca trù nhìn từ nhiều phía. NXB VHTT Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ca trù nhìn từ nhiều phía
Nhà XB: NXB VHTT Hà Nội

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình : Đình Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội ( nguồn: http://ditichlichsu- - NGHỆ THUẬT DÂN GIAN CA TRÙ Ở BẮC BỘ
nh Đình Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội ( nguồn: http://ditichlichsu- (Trang 12)
Hình : Đàn đáy ( nguồn: http://tatham.vn/dan-day-a99.html ) - NGHỆ THUẬT DÂN GIAN CA TRÙ Ở BẮC BỘ
nh Đàn đáy ( nguồn: http://tatham.vn/dan-day-a99.html ) (Trang 22)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w